Chi tiết tin - VPUBND Tỉnh
VĂN PHÒNG UBND TỈNH BÌNH - TRỊ - THIÊN (Từ 7/1976 - 30/6/1989)
Post date: 18/03/2022
1. Bối cảnh lịch sử.
Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), các tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình và khu vực Vĩnh Linh ngoài đặc điểm chung như nhiều địa phương khác trên cả nước là hứng chịu những hậu quả chiến tranh rất nặng nề. Xuất phát điểm đều rất thấp, cơ sở hạ tầng hầu như bị phá huỷ hoàn toàn bởi chiến tranh huỷ diệt, nhất là các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và khu vực Vĩnh Linh. Bởi đây là nơi diễn ra cuộc đụng đầu khốc liệt nhất giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ. Đời sống nhân dân rất khó khăn, thiên tai khắc nghiệt, hạn hán, bão lụt thường xuyên xảy ra.
Chủ trương thống nhất 3 tỉnh Bình - Trị - Thiên và khu vực Vĩnh Linh ngoài giá trị biểu tượng cho sự thống nhất đất nước bởi đây từng là vùng đất chứng kiến sự chia cắt đất nước thì nguồn cán bộ từ 3 tỉnh cũng khác nhau. Nếu như những cán bộ từ Quảng Bình và Vĩnh Linh đã được đào tạo trong môi trường XHCN thì phần lớn cán bộ ở Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế trưởng thành trong chiến tranh, chưa được đào tạo qua công tác hành chính. Ngoài niềm vui của ngày thống nhất và sự đoàn tụ thì tâm lý phân biệt địa phương, cục bộ chủ nghĩa là trở ngại lớn.
Nhưng với niềm vui, niềm tự hào trước chiến thắng vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975), với truyền thống cách mạng anh hùng, với bản chất tốt đẹp của người dân Bình - Trị - Thiên, 3 tỉnh và khu vực Vĩnh Linh đã nhanh chóng bắt tay vào khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Chỉ trong vòng hơn 1 năm (30/4/1975 - 6/1976), vùng Bình - Trị - Thiên cũ đã đạt được những thành tựu to lớn, khá toàn diện trong buổi đầu ổn định và bắt tay vào xây dựng quê hương.
Sau khi có Nghị quyết 245 ngày 20/9/1975 của Bộ Chính trị quyết định hợp nhất ba tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, khu vực Vĩnh Linh và Quảng Bình thành tỉnh Bình - Trị - Thiên, Trung ương quyết định thành lập Ban Chỉ đạo hợp nhất tỉnh Bình - Trị - Thiên do ông Lê Tự Đồng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên làm Trưởng ban và các ông Cổ Kim Thành, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình; Hồ Sĩ Thản, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị và Trần Đồng, Bí thư Khu ủy Vĩnh Linh làm thành viên.
Ngày 23/12/1975, Ban Chỉ đạo hợp nhất đã gửi Công điện số 551/CĐ-HN cho Tỉnh ủy, UBHC các tỉnh thông báo một số việc cần thiết chuẩn bị cho quá trình hợp nhất.
Ngày 27/12/1975, Ban Chỉ đạo hợp nhất ra Thông báo số 586/VP bắt đầu triển khai công tác hợp nhất, chỉ rõ việc hợp nhất tỉnh là một việc làm cấp bách, đòi hỏi phải khẩn trương tổ chức bộ máy kịp điều hành các mặt công tác bảo đảm kịp thời triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1976 - 1980) và nhiệm vụ của năm 1976 của tỉnh Bình - Trị - Thiên .
Ngày 06/3/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 2603-QĐNS/TW chỉ định Ban chấp hành, Ban Thường vụ (lâm thời) Đảng bộ tỉnh Bình - Trị - Thiên do đồng chí Nguyễn Hữu Khiếu làm Bí thư, đồng chí Cổ Kim Thành, Bùi San, Nguyễn Húng làm Phó Bí thư.
Từ ngày 02 - 04/4/1976, Tỉnh ủy lâm thời Bình - Trị - Thiên họp ra Nghị quyết phân công Tỉnh ủy mới và đề ra những nhiệm vụ cần phải hoàn thành công việc hợp nhất tỉnh.
Ngày 15/4/1976, Tỉnh ủy Bình - Trị - Thiên ra Chỉ thị 293-CT/TU về việc hoàn thành việc hợp nhất tỉnh. Thường vụ Tỉnh ủy họp phân công các đồng chí phụ trách khối chính quyền và khẩn trương xúc tiến việc hình thành UBND CM tỉnh, các Ty và Phòng chuyên môn trực thuộc chính quyền tỉnh.
Buổi gặp mặt của UBNDCM tỉnh Quảng Trị với các Đ/c Lãnh đạo chủ chốt của các huyện, thị và ty, sở, ban ngành của tỉnh. Có đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Hồ Sỹ Thản dự trước lúc hợp nhất tỉnh Bình - Trị - Thiên |
Ngày 01/5/1976, UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên công bố ra mắt trước nhân dân trong tỉnh tại Quảng trường Phu Văn Lâu (Huế). UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên có 15 thành viên do ông Bùi San [1] làm Chủ tịch, các ông Ngô Đình Văn, Trần Đồng, Nguyễn Vạn, Nguyễn Văn Đài làm Phó Chủ tịch, ông Lê Tư Sơn làm Ủy viên thường trực và 9 ủy viên Ủy ban.
Bộ máy hành chính cấp tỉnh Bình - Trị - Thiên được hình thành trên cơ sở hợp nhất bộ máy hành chính của ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và khu vực Vĩnh Linh.
Tỉnh Bình - Trị - Thiên trở thành một đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương có diện tích 18.430 km2, dân số gần 1,7 triệu người với 657.760 lao động. Tỉnh có 20 huyện, 1 thành phố và 2 thị xã với 1.036 xã, phường. Chiều dài của tỉnh từ Đèo Ngang đến đèo Hải Vân dài hơn 320 km, có bờ biển dài 340 km và đường biên giới giáp các tỉnh Trung Hạ Lào. Do điều kiện lịch sử, tỉnh Bình - Trị - Thiên tạm thời có hai vùng với những đặc điểm khác nhau về kinh tế và xã hội. Quảng Bình và Vĩnh Linh được giải phóng từ năm 1954 và đã đi trước một bước trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quảng Trị và Thừa Thiên vừa mới được giải phóng ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân mới rất nặng nề trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và xã hội. Trong lịch sử, nhân dân Bình - Trị - Thiên đã từng chung lưng đấu cật, cùng chiến hào chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và đã có những tình cảm gắn bó, ruột thịt trong những năm tháng kháng chiến.
[1]. Đến tháng 9/1976, đồng chí Nguyễn Húng được cử làm Chủ tịch thay cho đồng chí Bùi San chuyển sang làm Bí thư Tỉnh ủy.
|
Nghị quyết của Quốc hội về việc hợp nhất một số tỉnh |
Bước vào thời kỳ cách mạng mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, Đảng bộ và nhân dân Bình - Trị - Thiên phát huy sức mạnh tổng hợp của một tỉnh được hợp nhất, đoàn kết xây dựng quê hương giàu đẹp. Bình - Trị - Thiên có vị trí quan trọng về chính trị, văn hóa, quốc phòng, có tài nguyên tương đối phong phú và nhân lực dồi dào để phát triển toàn diện nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp (cả sản xuất và chế biến), công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và nhiều ngành công nghiệp và thủ công nghiệp khác; có nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh để phát triển du lịch... "Bình - Trị - Thiên hợp nhất càng tạo thành sức mạnh lớn, sức mạnh của cấp số nhân. Đảng bộ và nhân dân nhận thức đúng đặc điểm tình hình, biết phát huy sức mạnh tổng hợp, nhất định sẽ tạo được khí thế cách mạng mới" [1].Tuy nhiên, ngay sau ngày hợp nhất tỉnh, Bình - Trị - Thiên còn những khó khăn, thử thách và những vấn đề phức tạp cần tập trung giải quyết.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bình - Trị - Thiên ở vào vị trí tiền tiêu của hai Miền Nam - Bắc, là nơi đọ sức lớn giữa ta và địch nên bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh và để lại hậu quả nghiêm trọng trên nhiều lĩnh vực sản xuất và đời sống. Cả tỉnh Bình - Trị - Thiên có 3 thị xã, 15 thị trấn và 3/4 số làng, xã bị san bằng, 70% đê đập bị phá hỏng, gần 40% rừng bị rải chất độc hóa học và bom đạn tàn phá. Trên đồng ruộng hố bom đạn dày đặc, dưới mặt đất còn hàng triệu vật liệu nổ, môi trường sinh thái mất cân bằng. Hàng vạn người hồi cư thiếu nhà cửa, lương thực, việc làm. Cùng với hậu quả nặng nề của chiến tranh là điều kiện tự nhiên khắc nghiệt với nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau, hàng năm thường có thiên tai liên tiếp xảy đến. Trong khi đó, điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật ít ỏi, nghèo nàn, cả tỉnh vẫn ở trong tình trạng sản xuất nhỏ, công nghiệp chưa phát triển, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn thiếu thốn.
Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế là vùng mới giải phóng, cơ sở xã hội của địch để lại khá phức tạp, trên 3 vạn nhân viên và binh lính chế độ cũ tan rã tại chỗ cùng với các đảng phái phản động và bọn phản động đội lốt tôn giáo vẫn có âm mưu gây rối, chống phá cách mạng. Vừa thoát khỏi chiến tranh, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế đang trong quá trình xây dựng chính quyền cách mạng, vừa phải ổn định tình hình, hàn gắn vết thương chiến tranh vừa phải khôi phục phát triển kinh tế - xã hội nên còn nhiều khó khăn, công việc khá bề bộn đòi hỏi phải tập trung công sức và thời gian. Vĩnh Linh và Quảng Bình tuy đã có một thời gian hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất nhưng tình hình vẫn còn nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống.
Nhìn rộng ra, nửa sau thập niên 1970, đất nước tuy thống nhất nhưng phải đối mặt với nhiều khó khăn lớn. Ở bên ngoài, Mỹ thực hiện bao vây cấm vận và hỗ trợ các tổ chức phản động lưu vong hoạt động chống phá sự nghiệp xây dựng đất nước của nhân dân ta, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Ở phía biên giới Tây Nam, mối quan hệ với Campuchia Dân chủ ngày càng căng thẳng do những hoạt động chống phá Việt Nam của lực lượng Khmer Đỏ, dẫn đến những xung đột trên biên giới và cuối cùng là chiến tranh nổ ra giữa 2 nước vào cuối năm 1978 đầu năm 1979. Việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Campuchia đã khiến tiềm lực đất nước suy giảm. Trong khi đó, quan hệ với Trung Quốc cũng dần xấu đi. Trung Quốc cắt viện trợ, rút các chuyên gia về nước, gây ra “nạn kiều” và tấn công biên giới phía Bắc nước ta. Việc duy trì một lực lượng quân sự lớn để bảo vệ độc lập và chủ quyền trên hai đầu biên giới là một gánh nặng đối với nền kinh tế nước ta. Ở trong nước, hoạt động của các phần tử phản động, đặc biệt là lực lượng FULRO ở các tỉnh Tây Nguyên và miền núi Nam Trung Bộ càng làm cho tình hình trở nên phức tạp.
Như vậy, việc thành lập tỉnh mới Bình - Trị - Thiên đặt trong điều kiện đất nước nửa sau những năm 1970 tuy có những thuận lợi cơ bản song khó khăn là rất lớn, đòi hỏi nỗ lực lớn lao của toàn thể Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong sự nghiệp tái thiết lại tỉnh nhà sau chiến tranh. Trong bối cảnh đó, để góp phần thực hiện có kết quả những nhiệm vụ đã đặt ra, vai trò giúp việc, tham mưu của Văn phòng Ủy ban cho công tác lãnh đạo, điều hành của UBND tỉnh giữ vị trí quan trọng. Đây là trách nhiệm nặng nề đặt lên vai các cán bộ và nhân viên Văn phòng UBND tỉnh, đặc biệt là đối với những người đã quen với việc điều hành công việc trong thời chiến.
2. Tổ chức bộ máy của UBND tỉnh và Văn phòng UBND tỉnh.
Thực hiện những nhiệm vụ do Trung ương Đảng và Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra, UBND tỉnh cùng với các cơ quan chuyên môn trong hệ thống hành chính đã làm tốt công tác điều hành các mặt hoạt động kinh tế xã hội, đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, hoàn thành kế hoạch nhà nước giao, bước đầu đã thu được một số kết quả đáng phấn khởi.
Nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan hành chính nhà nước Bình - Trị - Thiên là tập trung điều hành phát triển kinh tế, văn hóa, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, cố gắng giải quyết vấn đề lương thực và thực phẩm, góp phần ổn định chính trị và trật tự an toàn trên địa bàn toàn tỉnh.
Lãnh đạo Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã cùng với cán bộ, công nhân viên Văn phòng nhanh chóng khắc phục mọi khó khăn thiếu thốn, sớm ổn định tổ chức, chăm lo đời sống để cùng tập trung sức lực và trí tuệ, thực hiện tốt công tác tham mưu, phục vụ bảo đảm cho sự chỉ đạo, lãnh đạo và điều hành của Lãnh đạo tỉnh Bình - Trị - Thiên .
Sau khi hợp nhất, để có cơ quan nhà nước thống nhất của tỉnh Bình - Trị - Thiên, toàn tỉnh đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh Bình - Trị - Thiên . Hội đồng nhân dân tỉnh bầu UBHC tỉnh Bình - Trị - Thiên nhiệm kỳ 1977 - 1981 với các chức danh chủ chốt như sau:
Chủ tịch Uỷ ban Hành chính: Đồng chí Bùi San.
Các Phó Chủ tịch gồm các đồng chí: Vũ Thắng, Ngô Đình Văn, Trần Đồng, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Văn Đàm, Hồ Sĩ Thản, Lê Tư Sơn, Nguyễn Sanh [2].
Trong quá trình chuẩn bị hợp nhất, các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình và Khu vực Vĩnh Linh đã sắp xếp một bước bộ máy. Khi thành lập các cơ quan hành chính nhà nước Bình - Trị - Thiên, Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã sắp xếp lại tổ chức, bổ nhiệm lãnh đạo các ngành, nhanh chóng đưa bộ máy mới vào hoạt động. Về cơ bản, bộ máy hành chính tỉnh Bình - Trị - Thiên có các đầu mối như các tỉnh trước đây:
Các ngành tổng hợp có: Ủy ban kế hoạch nhà nước, Cục Thống kê, Thanh tra tỉnh.
Các ngành kinh tế tổng hợp có: Ty Tài chính, Cục Thuế, Ty Thương nghiệp, Ty Thủy lợi, Ty Lương thực.
Các ngành kinh tế: Ty Công nghiệp và thủ công ngiệp; Ty Nông nghiệp; Ty Lâm nghiệp; Ty Thủy sản; Ty Giao thông vận tải; Ty Xây dựng.
Các ngành văn hóa - xã hội: Ty Giáo dục, Ty Y tế, Ty Văn hóa Thông tin, Ty Thể dục Thể thao.
Các Ủy ban: Ủy ban Bảo vệ bà mẹ và trẻ em; Ủy ban Kế hoạch hóa gia đình...
Các ban: Ban Nông nghiệp; Ban Tổ chức chính quyền; Ban Giáo dục chuyên nghiệp
Văn phòng Ủy ban với các Thư ký đoàn, các phòng, ban trực thuộc giúp Thường trực Ủy ban.
Theo chức năng nhiệm vụ, các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Bình - Trị - Thiên triển khai công tác, giúp UBND tỉnh điều hành các mặt hoạt động trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Thời gian đầu hợp nhất tỉnh Bình - Trị - Thiên, công việc của Văn phòng UBND tỉnh khá bề bộn, phức tạp và gặp không ít khó khăn: Bộ máy vừa mới được hình thành, số lượng tăng đột ngột (trên 160 người) gồm rất nhiều bộ phận cùng sinh hoạt ghép: ngoài các Bộ phận Thư ký Đoàn, Văn thư - Lưu trữ, Quản trị - Tài vụ, còn có thêm Ban Vật giá, Ban quản lý nhà đất, Ban Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em, Ban Miền núi, Ban Tổ chức cán bộ… và 3 nhà khách: số 2 Lê Lợi, nhà khách Đông Hà và nhà khách Đồng Hới. Điều kiện và phương tiện làm việc buổi đầu còn thiếu thốn, đời sống cán bộ công nhân viên chức của Văn phòng còn khó khăn, đặc biệt là các đồng chí lãnh đạo UBND tỉnh, lãnh đạo Văn phòng UBND tỉnh, cán bộ công nhân viên từ các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, khu vực Vĩnh Linh tập trung về thành phố Huế, hầu hết sống tập thể, ở xa gia đình… Chánh Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đầu tiên là đồng chí Nguyễn Đình Đẩu, sau đó đồng chí Nguyễn Minh Kỳ, Uỷ viên Thư ký UBND tỉnh kiêm Chánh Văn phòng. Đồng chí Phan Quy Nhơn giữ chức Chánh Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên cho đến khi tách tỉnh vào tháng 7/1989.
Sau khi tổ chức bộ máy hành chính cấp tỉnh, UBHC Bình - Trị - Thiên chỉ đạo các địa phương làm tốt công tác chuẩn bị và tiến hành bầu cử HĐND cấp xã và khu phố, củng cố bộ máy chính quyền cấp cơ sở. Ngày 07/11/1976, nhân dân trong tỉnh đi bỏ phiếu bầu 10.395 đại biểu vào HĐND các xã, khu phố. Trong tổng số đại biểu HĐND cấp cơ sở có 34,1% là đảng viên, 38,4% cán bộ trẻ, 28,7% cán bộ nữ. Hội đồng nhân dân các xã, khu phố đã bầu ra UBHC, cơ quan chấp hành và điều hành các hoạt động ở địa phương mình. Việc tiến hành bầu cử HĐND đã thể hiện quyền làm chủ và trách nhiệm công dân trong việc xây dựng chính quyền, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thực hiện chủ trương “Phải xây dựng cấp huyện trở thành đơn vị kinh tế công - nông nghiệp, lấy huyện làm địa bàn tổ chức lại sản xuất, tổ chức và phân công lại lao động xã hội một cách cụ thể, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể. Huyện là đơn vị có nhiều khả năng giải quyết tại chỗ những vấn đề đời sống nhân dân và cũng là một pháo đài chiến đấu bảo vệ CNXH”, Tỉnh ủy tỉnh Bình - Trị - Thiên đã ra Nghị quyết 02-NQ/TU về việc điều chỉnh và sáp nhập một số huyện trong tỉnh và trên cơ sở đó, HĐND ra nghị quyết, UBHC tỉnh đã tiến hành làm các thủ tục điều chỉnh địa giới một số huyện trong tỉnh.
Ngày 11/3/1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 62-QĐ/CP về việc hợp nhất và điều chỉnh địa giới một số huyện thuộc tỉnh Bình - Trị - Thiên như sau:
- Hợp nhất huyện Lệ Thủy và huyện Quảng Ninh thành một huyện lấy tên là huyện Lệ Ninh;
- Hợp nhất huyện Tuyên Hóa và huyện Minh Hóa thành một huyện lấy tên là huyện Tuyên Hóa;
- Hợp nhất huyện Vĩnh Linh, Gio Linh và Cam Lộ thành một huyện lấy tên là huyện Bến Hải;
- Hợp nhất huyện Triệu Phong và Hải Lăng thành một huyện lấy tên là huyện Triệu Hải;
- Hợp nhất huyện Phú Lộc, huyện Nam Đông và các xã Vinh Xuân, Vinh Thanh của huyện Phú Vang thành một huyện lấy tên là huyện Phú Lộc;
- Hợp nhất huyện Hương Thủy và huyện Phú Vang thành một huyện lấy tên là huyện Hương Phú;
- Hợp nhất huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền và huyện Hương Trà thành một huyện lấy tên là huyện Hương Điền.
3. Hoạt động tham mưu, giúp việc của Văn phòng UBND tỉnh.
Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên trực tiếp tham mưu cho Lãnh đạo UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 - 1980).
Thực hiện chủ trương xây dựng cấp huyện vững mạnh, các cơ quan hành chính chuyên môn của tỉnh đã giúp các huyện, thị điều tra, xây dựng quy hoạch tổng thể, xác định mô hình kinh tế hợp lý cho từng địa phương. Cùng với việc quy hoạch, phân vùng kinh tế, các địa phương đã từng bước tổ chức lại sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, tăng cường cấp huyện, chuyển huyện từ một đơn vị trung gian, hành chính trở thành một cấp kế hoạch, vừa quản lý hành chính vừa quản lý kinh tế, đồng thời là trung tâm khoa học kỹ thuật cho hợp tác xã, các tổ chức kinh tế tập thể khác; là một cứ điểm để tiến hành ba cuộc cách mạng ở nông thôn.
Cũng trong giai đoạn này, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã xác định: "Xây dựng huyện vững mạnh, thực sự trở thành đơn vị kinh tế nông, công nghiệp; lấy huyện làm địa bàn tổ chức lại sản xuất, tổ chức và phân công lại lao động một cách cụ thể và kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể".
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình - Trị - Thiên cũng đã chỉ rõ: "Lấy địa bàn huyện để tổ chức lại sản xuất, gắn liền với xây dựng hợp tác xã và xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp hoặc nông - lâm - công nghiệp, tiến lên theo hướng sản xuất lớn XHCN. Đẩy mạnh xây dựng kinh tế quốc doanh, tập thể vững mạnh, đồng thời hướng dẫn kinh tế gia đình đi đúng hướng".
Bám sát những chủ trương lớn của Trung ương và của tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã cùng các ngành tập trung tham mưu đề xuất các giải pháp chính cho thời kỳ này là: Phải xem huyện là địa bàn chủ yếu để tiến hành thực hiện đồng thời 3 cuộc cách mạng: về quan hệ sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất và cách mạng văn hóa tư tưởng nhằm xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới XHCN ở nông thôn; huyện là nơi thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; xây dựng huyện trở thành đơn vị kinh tế - quốc phòng vững mạnh. Phải nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp huyện phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, tạo nên sức mạnh mới của một sự đoàn kết nhất trí cao. Coi trọng phát triển văn hóa, y tế, giáo dục; thực hiện tốt các vấn đề xã hội (đặc biệt chăm lo tốt hơn nữa các gia đình liệt sỹ, thương binh và người có công). Tăng cường bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh vững mạnh. Tích cực giảm bớt biên chế hành chính, quyết tâm xây dựng bộ máy tinh giảm từ tỉnh đến huyện và xã.
Tỉnh đã tập trung chỉ đạo 3 huyện trọng điểm là Triệu Hải, Hướng Hoá, Bố Trạch. Qua quá trình thực hiện, huyện Triệu Hải đã xây dựng được 6 hợp tác xã cấp xã điểm: Hải Thiện, Triệu Trạch, Triệu Lương, Triệu Hoà, Hải Vĩnh, Hải Lâm; tiếp tục triển khai xây dựng các nông trường; quy hoạch và chỉ đạo thí điểm vùng cát; đưa điện về các trạm bơm; xây dựng lại trại chăn nuôi lợn, trạm cơ khí; tổ chức binh đoàn lao động xung kích 4.000 người tại công trường Thuỷ nông Nam Thạch Hãn.
[1]. Theo Nghị quyết của Tỉnh ủy Bình - Trị - Thiên ngày 06/4/1976.
[2]. Danh sách các Phó Chủ tịch có sự thay đổi trong nhiệm kỳ, trên đây là những vị đã từng giữ chức Phó Chủ tịch trong thời gian 1977 - 1981.
Đập cao su của Công trình Thuỷ lợi Nam Thạch Hãn |
Huyện Hướng Hoá thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn "Xây dựng huyện Hướng Hoá thành một huyện miền núi kiểu mẫu" đã tích cực quy hoạch lại vùng trồng lúa nước, trồng màu, đồng thời kết hợp với việc phát triển thuỷ lợi, hoàn chỉnh phân vùng quy hoạch, phân vùng phát triển trồng cây cà phê; thực hiện thí điểm công tác giao đất, giao rừng, định cư để nhanh chóng nhân rộng ra toàn huyện. Tiến hành làm 4 tuyến đường quan trọng trong huyện là: Khe Sanh - Lìa, Khe Sanh - Lao Bảo, Khe Sanh - Tà Rụt, Khe Sanh - Nguồn Rào. Xây dựng hoàn chỉnh Trạm xá Lìa và các trạm xá khác; xây dựng các cửa hàng Lìa, Lao Bảo, tiến tới xây dựng hệ thống các hợp tác xã mua bán trong toàn huyện. Huyện Hướng Hoá đã củng cố nhanh các tập đoàn sản xuất, tập trung xây dựng hợp tác xã điểm Tân Phước, hình thành xí nghiệp chế biến màu và vườn ươm giống cà phê.
Nhờ sự chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, công tác xây dựng huyện trở thành một đơn vị kinh tế, pháo đài vững chắc về quốc phòng - an ninh được xúc tiến mạnh mẽ và bước đầu đã thu được những kết quả khả quan. Từng bước tổ chức phân cấp, phân công quản lý cho huyện mạnh mẽ và triệt để hơn, kể cả phân cấp công tác quản lý thu, chi ngân sách.
Tuy nhiên, việc xây dựng cấp huyện thành pháo đài kinh tế, quân sự đã bộc lộ một số thiếu sót, khuyết điểm, đó là:
- Công tác quy hoạch chưa phân rõ ranh giới quy hoạch và kế hoạch, trước mắt và lâu dài, chưa quán triệt đúng mức quan điểm sản xuất lớn XHCN. Quy hoạch của ngành trên địa bàn huyện còn chồng chéo, mâu thuẩn; các huyện thiếu tranh thủ và phát huy các cơ sở kinh tế của tỉnh, của Trung ương trên địa bàn.
- Việc bàn giao và phân cấp quản lý đẩy huyện vào tình trạng lúng túng. Nhiều huyện chưa đủ năng lực lãnh đạo quản lý; lực lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý, khoa học kỹ thuật còn yếu và thiếu, ít kinh nghiệm để đảm nhiệm công việc. Mặt khác, tư tưởng bao cấp, ỷ lại còn nặng nề, việc điều hành sản xuất theo kế hoạch và hạch toán kinh tế còn lúng túng dẫn đến tình trạng xin bù lỗ phổ biến.
- Số người lao động đến tuổi chưa có việc làm chiếm 1/4 lao động; ở các địa phương, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn đang là gánh nặng cho cấp huyện.
Tóm lại, do quy mô cấp huyện quá lớn, năng lực quản lý hạn chế, cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn, khó khăn, do đó việc tổ chức lại sản xuất, xây dựng cấp huyện chưa đạt lại những kết quả như mong muốn theo tinh thần của Trung ương.
Trọng tâm công tác tham mưu của Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên giai đoạn này là nắm vững mục tiêu số 1 mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình - Trị - Thiên lần thứ nhất đề ra, thực hiện các Nghị quyết của HĐND tỉnh, tập trung chỉ đạo để toàn thể nhân dân, các cấp, các ngành trong toàn tỉnh kiên trì phấn đấu vươn lên giải quyết được một bước quan trọng vấn đề lương thực, thực phẩm. Động viên toàn dân tham gia các phong trào làm thuỷ lợi, rà phá bom mìn, khai hoang phục hóa, vượt qua thiên tai dồn dập và khắc nghiệt, tích cực phát triển màu, làm vụ Đông, sử dụng giống lúa mới, trồng cây công nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi…
"Diện tích canh tác giai đoạn này đã được mở rộng, bình quân hàng năm tăng thêm 1 vạn ha. Nhiều điểm trong các vùng kinh tế mới được hình thành, đang từng bước ổn định sản xuất và đời sống. Diện tích gieo trồng năm 1980 được trên 271 ngàn ha, bình quân hàng năm tăng 4,5%, trong đó diện tích cây lương thực trên 256 ngàn ha, bình quân hàng năm tăng 4,9% [1].
Đặc biệt đáng ghi nhận là nhiều cơ sở sản xuất đã bắt đầu cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện thí điểm khoán sản phẩm, đã tạo được sự chuyển biến tích cực tăng năng suất, sản lượng và triển khai thực hiện mở rộng hình thức gia công về các gia đình, kết hợp tốt 3 lợi ích.
Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, UBND tỉnh đã quan tâm giải quyết việc làm cho người lao động ở thành phố, thị xã, tạo thêm việc làm cho người lao động ở nông thôn đồng bằng, miền biển, miền núi, từng bước phân công lại lao động xã hội. Trong 5 năm đã giải quyết cho 17,7 vạn người có việc làm. Đã tổ chức cho 15,5 vạn người với 6,3 vạn lao động đi lao động xây dựng các vùng kinh tế mới. Nhiều vùng kinh tế mới ổn định và phát triển tốt như Khe Sanh, định canh định cư tốt như xã Pa Tầng, huyện Hướng Hoá; phân bổ lại lao động hiệu quả như các hợp tác xã: Đại An Khê, Long Hưng, Phú Hưng của huyện Triệu Hải có gần 6,3 vạn người với 2,7 vạn lao động đi ngoài tỉnh. Đã chú ý huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho hàng vạn người lao động, 34% tổng số công nhân được thi nâng tay nghề. Công tác tổ chức và điều hành lao động có nhiều tiến bộ trong việc sử dụng các binh đoàn lao động làm thủy lợi; các đội khai hoang, xây dựng phòng tuyến chiến đấu, rà phá bom mìn, tập trung lao động phục vụ chống úng, chống hạn, thu hoạch lúa, màu, các chiến dịch vận tải, tiếp nhận hàng hoá… [2].
Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình - Trị - Thiên, UBHC và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban đã điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng nổi bật trên các mặt sau đây:
- Đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế xã hội, thực hiện kế hoạch Nhà nước 1976 - 1980.
Hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn toàn tỉnh trong kế hoạch 5 năm lần 1, 1976-1980 có những bước phát triển mới.
Hoạt động của hệ thống hành chính tỉnh Bình - Trị - Thiên đã có những đóng góp thúc đẩy sự phát triển và thu được một số kết quả đáng ghi nhân sau:
Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã tập trung công sức, trí tuệ và tham mưu cho các cấp lãnh đạo tỉnh kiên trì thực hiện tốt 5 mục tiêu lớn nhằm tạo được sự chuyển biến căn bản bộ mặt của cả 4 vùng, thông qua các giải pháp tổ chức 5 mũi tiến công, khai thác và phát huy 4 thế mạnh và tổ chức thực hiện 3 cuộc vận động lớn. Hướng chỉ đạo tập trung của chính quyền nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Hội nghị tỉnh Đảng bộ lần thứ 2 là:
Tập trung sức đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện, phát triển cân đối trồng trọt và chăn nuôi, phấn đấu bảo đảm nhu cầu lương thực cho người và thức ăn cho gia súc, có dự trữ; làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, tăng nhanh nguồn thực phẩm.
Mục tiêu phấn đấu phát triển nông nghiệp toàn diện được cụ thể hoá là: Phải bảo đảm lương thực, thực phẩm cho xã hội; Bảo đảm cung cấp nguyên liệu nông sản cho công nghiệp; phát triển nguồn hàng xuất khẩu; tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, thực hiện phân bổ lại lao động, bổ sung nhân lực cho yêu cầu phát triển nông nghiệp, xây dựng cơ bản… Giải pháp được tập trung chọn lựa lúc này là tập trung tấn công vào 5 mũi chính: thuỷ lợi; phục hoá, khai hoang; trồng cây; thuỷ sản và sản xuất vật liệu xây dựng. Phát triển đều ở 4 vùng kinh tế: vùng nông thôn, đồng bằng; miền núi và vùng kinh tế mới ở miền núi; miền biển và kinh tế miền biển; thành phố và các thị xã.
Nhờ liên tục phấn đấu, với một phong trào thi đua sâu rộng trong toàn tỉnh nên các chỉ tiêu, nhiệm vụ về kinh tế xã hội 5 năm (1976 -1980) của tỉnh Bình - Trị - Thiên đều đạt và có nhiều lĩnh vực vượt kế hoạch đề ra. Đã tổ chức rà phá bom mìn, san lấp hố bom, phục hoá khai hoang được 6 vạn ha, đưa diện tích canh tác bình quân đầu người từ 700m2 lên 1.000m2; diện tích hoa màu từ 55.600 ha (năm 1976) lên 94.200 ha năm 1980, sản lượng màu quy thóc từ 93.144 tấn lên 160.000 tấn. Sản lượng lương thực quy thóc từ 348.000 tấn lên 370.054 tấn. Trong đó, huyện Bến Hải đạt 3.031 tấn, Triệu Hải đạt 3889 tấn, Đông Hà 95 tấn, Hướng Hoá 489,8 tấn. Qua đó, giảm gánh nặng chi viện của Trung ương từ 6,5 vạn tấn/năm (năm 1976) xuống còn 1,6 vạn tấn/năm (năm 1980).
Bên cạnh việc tập trung sản xuất bảo đảm lương thực, chính quyền các cấp cũng đã tập trung chỉ đạo phát triển trồng cây công nghiệp và thực phẩm. Đến năm 1980, toàn tỉnh có 1.038 ha chè, 33 ha hồ tiêu, 200 ha cà phê (chủ yếu là ở Quảng Trị và một phần của Quảng Bình), 103 ha cây cọ dầu. Phong trào trồng cây gây rừng phát triển mạnh, đặc biệt là ở các huyện Bến Hải, Triệu Hải. Trong 5 năm đã trồng được 45.577 ha rừng tập trung, 29.164 ha rừng phân tán và đã khai thác 375.400m3 gỗ. Sản lượng đánh bắt thuỷ hải sản hàng năm đạt 20.000 tấn. Phong trào nuôi cá nước ngọt phát triển mạnh ở cả vùng đồng bằng và miền núi.
Ngành nghề truyền thống bắt đầu được phục hồi và phát triển. Cơ cấu nông - công nghiệp trong toàn tỉnh bước đầu được chuyển dịch theo hướng tích cực. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng từ 84,7 triệu đồng lên 103,4 triệu đồng. Từ chỗ có 38 xí nghiệp quốc doanh, 98 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp (năm 1976) đến năm 1980 toàn tỉnh có 76 xí nghiệp quốc doanh, 294 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, 1.100 tổ, đội sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Đáng kể là đã xây dựng 3 xí nghiệp sản xuất xi măng, công suất 9 vạn tấn/năm (trong đó có 1 xí nghiệp ở Đông Hà). Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã phát triển sản xuất thêm 126 mặt hàng mới, đưa số lượng mặt hàng tiêu dùng do tỉnh sản xuất lên 50%, đáp ứng khoảng 25% nhu cầu của tỉnh.
Các lĩnh vực giao thông - vận tải, bưu điện, tiếp tục giữ vững và đạt chất lượng khá. Đặc biệt, trong quá trình cải tiến phân phối, lưu thông và giải quyết vấn đề lương thực, thực hiện Nghị quyết 06 của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị; thời kỳ này Ủy ban tỉnh tập trung chỉ đạo vừa đưa công tác cung ứng vật tư phân cấp dần về huyện, chuyển cung cấp lương thực thường xuyên cho 10 vạn người sang hợp đồng kinh tế 2 chiều,
[1]. Trích Báo cáo của UBND tỉnh tại kỳ họp thứ 9, HĐND tỉnh Bình - Trị - Thiên, khoá I.
[2]. Trích Báo cáo UBND tỉnh tại kỳ họp thứ 9, HĐND tỉnh Bình - Trị - Thiên, khoá I.
Lễ kỷ niệm 30 năm ngày mở tuyến đường Trường Sơn tại Nghĩa trang |
đình chỉ cấp lương thực cho những người làm ăn tự do và không có quan hệ với Nhà nước, điều chỉnh định mức cung cấp cho cán bộ, công nhân viên theo quy định; vừa chủ trương đẩy mạnh mối quan hệ với các tỉnh, thành trong nước và các nước, đặc biệt là nước bạn Lào, góp phần làm cho lưu thông hàng hoá được đẩy mạnh, kích thích sản xuất trong tỉnh phát triển. Nhờ vậy, xuất khẩu có tiến bộ. Giá trị hàng xuất khẩu tăng từ 6,4 triệu đồng năm 1976 lên 17 triệu đồng năm 1980, trong đó tập trung là các mặt hàng chủ lực như ớt, tiêu, lạc, vừng, tôm, …(của nông nghiệp) và chổi đót, mặt hàng mây tre đan, thảm cỏ, ván sàn… (của hàng thủ công mỹ nghệ). Tăng tích luỹ địa phương từ 30 vạn lên 1 triệu đồng.
Cơ sở vật chất kỹ thuật được từng bước đầu tư xây dựng với tổng số vốn đầu tư trong 5 năm là 804 triệu đồng, đạt 90,6% kế hoạch. Trong đó, vốn Trung ương là 381 triệu đồng, tập thể và nhân dân đóng góp là 84 triệu đồng. Tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động "Nhà nước và nhân dân cùng làm", trong 5 năm đã huy động 20 triệu ngày công để đào đắp 14 triệu m3 đất xây dựng các công trình thuỷ lợi; 1,6 triệu ngày công rà phá bom mìn; 4,5 triệu ngày công để xây dựng 8.500 km đường giao thông nông thôn, góp phần rất lớn vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn này. Đặc biệt, ngày 08/3/1978, công trình Đại Thuỷ nông Nam Thạch Hãn được khởi công xây dựng với tổng số vốn đầu tư là 73 triệu đồng. Năm 1980 đã hoàn thành giai đoạn 1 và đưa vào sử dụng, bảo đảm nước tưới cho hơn 17.000 ha vùng đất của Triệu Hải và một phần của huyện Hương Điền.
Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Lương tiếp đoàn cán bộ tỉnh Savannakhet |
Cùng với việc tập trung tham mưu cho lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển sản xuất, Văn phòng UBHC tỉnh cũng đã kịp thời tham mưu, đề xuất các giải pháp cho lãnh đạo tỉnh chỉ đạo toàn dân thực hiện tốt các chính sách xã hội thông qua cuộc vận động "Phấn đấu trở thành công dân kiểu mẫu, gia đình cách mạng gương mẫu", thường xuyên chăm lo cho các gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng.
Nhằm đảm bảo mối quan hệ hợp tác hữu nghị đặc biệt với nước bạn Lào, năm 1976 UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã phối hợp với Ủy ban Liên hợp Việt - Lào tiến hành thực hiện thí điểm công tác phân giới thực địa, cắm mốc thí điểm 20 km đường biên giới giữa 2 tỉnh Savannakhet và tỉnh Bình - Trị - Thiên, sau đó là giữa Salavan với Bình - Trị - Thiên, chạy dọc 456 km đường biên giới Việt - Lào đoạn qua Bình - Trị - Thiên với Salavan và Savannakhet. Đã phối hợp với bạn tiến hành rà soát, điều chỉnh giao lại phần đất và dân (10 xã, với gần 13 nghìn dân trong đó có gần 300 cán bộ đảng viên của ta) cho bạn. Đồng thời phải thực hiện tốt các chính sách và chăm lo đời sống cho đồng bào ở lại trên phần đất bạn. Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã chuẩn bị kế hoạch, tổ chức chặt chẽ để tổ chức lễ ký kết nghĩa giữa 2 tỉnh Bình - Trị - Thiên và tỉnh Savannakhet tạo cho mối quan hệ hữu nghị đặc biệt, tình cảm tốt đẹp vốn có lâu đời của nhân dân 2 nước Việt - Lào, 2 tỉnh Bình - Trị - Thiên và Savannakhet ngày càng gắn bó mật thiết và phát triển.
Thực hiện chủ trương của Trung ương và kế hoạch của tỉnh về công tác đẩy mạnh cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh và tiểu thủ công nghiệp, Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã cùng các ngành kịp thời tham mưu giúp UBND tỉnh chỉ đạo bằng những giải pháp, bước đi cụ thể là:
- Kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng, gắn chặt việc xoá bỏ bóc lột tư bản chủ nghĩa ở nông thôn tại các vùng phía Nam với việc chú trọng tổ chức lại sản xuất lại trong từng ngành, từng vùng, từng địa phương và từng bước củng cố, xây dựng kinh tế XHCN.
- Cải tạo XHCN ở thành thị đồng thời kết hợp chặt chẽ với cải tạo XHCN ở nông thôn, tập trung xoá bỏ sự lũng đoạn của tư sản đối với nông thôn, xây dựng nhanh mạng lưới hợp tác xã mua bán.
- Có bước đi và giải pháp thích hợp. Bảo đảm sự vững chắc trên cơ sở chuẩn bị tốt đến đâu thì làm đến đó, không được nóng vội.
Nhờ vậy, trong 5 năm (1976 - 1980), công tác cải tạo công thương nghiệp của tỉnh đã thu được những thắng lợi bước đầu. Giai cấp tư sản thương nghiệp về căn bản đã bị xoá bỏ, kinh tế tư bản tư doanh trong công nghiệp (vận tải, cơ khí, xây dựng…) đã được cải tạo và đã chuyển sang những hoạt động mới như: Công tư hợp doanh (đã thành lập được 7 xí nghiệp); hợp tác xã (đã thành lập được 5 hợp tác xã); xí nghiệp quốc doanh (đã thành lập được 2 xí nghiệp). Đã tổ chức được 120 hợp tác xã thủ công nghiệp, 300 tổ hợp thu hút được 23.000 thợ thủ công và trên một vạn người buôn bán nhỏ vào mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ ở các phường, xã.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ và các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Nghị quyết 22/NQ - TW ngày 22-10-1979 của Bộ Chính trị; trong 5 năm (1976 - 1980), Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã tham mưu tổ chức phát động phong trào toàn dân tích cực tham gia "sản xuất giỏi, văn hóa cao, an ninh quốc phòng tốt", vừa hăng hái tham gia lao động sản xuất, dự trữ lương thực chuẩn bị chiến đấu, vừa làm tròn nhiệm vụ của hậu phương với tiền tuyến và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức rộng khắp, từ năm 1977 đến tháng 6/1979 phát triển thêm 101.271 người, nâng tỷ lệ so với dân số từ 5,7% lên 10,81% năm 1979. Bộ đội địa phương được củng cố, lực lượng dự bị động viên đã lên đến 36.000 người được tổ chức, sắp xếp và quản lý chặt chẽ. Hàng ngàn con em các dân tộc của tỉnh đã lên đường nhập ngũ, tham gia trực tiếp chiến đấu ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Trong 3 năm (1976 - 1979) chỉ tiêu giao quân đạt 157,3% (13.529/8.600 người) kế hoạch.
Trong 5 năm (1976 - 1980), tỉnh đã huy động nhân dân đóng góp 3 triệu đồng vật liệu và 2 triệu đồng ngày công để xây dựng quốc phòng, đã đóng góp trên 900 tấn vôi và xi măng, 2 triệu viên gạch, 37 vạn cây tre, hơn 8 vạn cây gỗ tròn, hàng vạn cọc sắt và nhiều loại vật liệu khác để xây dựng công sự sẵn sàng chiến đấu.
Kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) kết thúc làm thay đổi căn bản thực trạng kinh tế - xã hội của tỉnh, đặt nền móng quan trọng để cho Bình - Trị - Thiên vững bước vào thời kỳ mới, thực hiện có kế hoạch 5 năm (1981 - 1985).
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, Bình - Trị - Thiên còn phải giải quyết những thách thức mới đã và đang đặt ra khá gay gắt là: Nền kinh tế còn mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, sản xuất vật liệu xây dựng không đáp ứng được nhu cầu xây dựng cơ bản còn rất lớn của tỉnh, cơ chế quản lý chưa được chuyển đổi phù hợp, còn nặng về tập trung quan liêu, bao cấp. Khối lượng hàng hoá trong khu vực Nhà nước và hợp tác xã mua bán giảm, giá cả thị trường tăng, đồng tiền sụt giá. Đời sống nhân dân nói chung, đặc biệt khu vực hưởng lương còn nhiều khó khăn. Tiêu cực trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội có chiều hướng phát triển mạnh.
Trong bối cảnh khó khăn chung của cả tỉnh, cả nước lúc này: Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã vượt qua, cố gắng để một mặt vừa tham mưu chính xác, kịp thời những giải pháp, những kế hoạch có tính chiến lược; giải quyết tất cả những vấn đề nóng hổi cấp thiết đã, đang và sẽ đặt ra; những công việc sự vụ đột xuất giúp cho sự điều hành của Lãnh đạo UBND tỉnh ngày càng đúng hướng, tạo được hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước của bộ máy chính quyền các cấp ngày một tốt hơn. Mặt khác, giai đoạn này, trong bối cảnh chung của đất nước, đời sống của cán bộ, công nhân viên chức của Văn phòng gặp nhiều khó khăn. Lãnh đạo và tập thể cán bộ, nhân viên Văn phòng đã tích cực chủ động xoay chạy tìm mọi biện pháp, ra Bắc vào Nam tìm nguồn hàng, tổ chức lao động sản xuất: lúa, sắn và các loại hoa màu khác ở nhiều nơi trong tỉnh (có địa điểm xa Huế hàng trăm km) để từng bước ổn định và chăm lo nâng cao đời sống cho hơn 100 cán bộ công nhân viên chức của Văn phòng. Đây cũng là một nhiệm vụ trọng tâm, có tính cấp thiết của toàn thể Đảng uỷ, Lãnh đạo Văn phòng, các tổ chức quần chúng như: Công đoàn, Đoàn thanh niên, Nữ công và toàn cán bộ, công nhân viên của Văn phòng cùng tham gia hiến mưu, hiến kế để thực hiện. Nhờ vậy đời sống của cán bộ, công chức Văn phòng dần dần được ổn định. Việc bố trí, sắp xếp nơi ăn, chốn ở cho các đồng chí từ Quảng Bình, Vĩnh Linh, Quảng Trị vào cũng đã được quan tâm hơn. Ngoài tiêu chuẩn các mặt hàng cung cấp ít ỏi, mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình hàng tháng còn được Văn phòng hỗ trợ thêm một số ít về lương thực, màu, thịt và một số nhu yếu phẩm khác do Văn phòng xoay chạy được hoặc tổ chức lao động sản xuất tự túc mà có. Mỗi người phải làm việc bằng hai: vừa hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, phải giỏi việc nước, vừa phải tự lo đảm đang việc nhà: làm thêm nghề phụ, nhận hàng làm gia công thêm ngoài giờ: xe sợi, bóc lạc, dán bao bì, tự tổ chức chăn nuôi, trồng trọt… tại gia đình để tự ổn định cuộc sống.
Đồng chí Hoàng Hữu Phong, nguyên Phó Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên kể lại: “Ngày ấy, khi bác Nguyễn Húng (tức Nguyễn Văn Quảng) đang là Chủ tịch UBND tỉnh. Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của tỉnh Bình - Trị - Thiên nhưng không nề hà trưa tối cởi trần lặn xuống sông Bồ vớt rong ủ làm phân và luôn luôn mẫn cán trong các hoạt động cải thiện đời sống. Nhưng khi phân phối thành quả lao động, có “phần cứng” chia đều theo khẩu phần cán bộ, công nhân viên chức, còn “phần mềm” là phân theo số công mỗi người tham gia lao động sản xuất, Bác Chủ tịch luôn nhắc nhở nên có phần trợ cứu giúp đỡ cho những gia đình đông con, có khó khăn hơn, riêng “phần mềm” của bác thì bác giành ưu tiên cho những gia đình khó khăn” [1].
Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã xây dựng được một không khí đầm ấm trong tình thương yêu đùm bọc của đồng chí, đồng đội trong cơ quan Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên và đã tạo nên một sự đoàn kết, nhất trí đồng lòng cao để tiếp tục đóng góp, cống hiến được nhiều hơn công sức và trí tuệ của từng cá nhân và cả tập thể; quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo UBND tỉnh Bình Trị Thiên, góp phần không nhỏ tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ và khá toàn diện bộ mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của tỉnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất đã đề ra và kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) của tỉnh.
Hoạt động tham mưu, giúp việc của Văn phòng trong giai đoạn 1981 - 1985:
Trong giai đoạn này, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu giúp UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên chỉ đạo các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh điều hành tổ chức các hoạt động quản lý nhà nước từ năm 1981 - 1985 với những hoạt động nổi bật sau đây:
Vận dụng linh hoạt và phù hợp với tình hình thực tiễn của tỉnh, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình - Trị - Thiên lần thứ III khai mạc vòng 2 ngày 27/01/1983 đã định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của tỉnh trong giai đoạn mới, với những nhiệm vụ cụ thể là: "Nông nghiệp, thuỷ sản, lâm nghiệp phải tập trung sức giải quyết vấn đề ăn của xã hội, tăng nguồn nguyên liệu cho sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Các ngành kinh tế, văn hoá phải xoay quanh mặt trận nông nghiệp mà phục vụ nhằm giải quyết trước hết cho được vấn đề ăn… Thực hiện đồng bộ các biện pháp: thực hiện phân bổ lao động và dân cư, sinh đẻ có kế hoạch, giữ mức dân số hợp lý và ổn định. Phát triển sản xuất cả lúa, màu và cây thực phẩm, đẩy mạnh chăn nuôi, không ngừng tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Tổ chức mọi tầng lớp dân sự ngoài nông dân tham gia sản xuất, tự giải quyết một phần nhu cầu lương thực, thực phẩm. Tạo nguyên liệu cho công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển, tăng nhanh hàng xuất khẩu để nhập vật tư phục vụ sản xuất; có nhiều hàng công nghiệp để trao đổi với nông dân lấy lương thực, bảo đảm cho tỉnh, huyện nắm chắc được khối lượng lương thực theo yêu cầu kế hoạch".
Có thể nói thời kỳ này, vấn đề lương thực, giải quyết cái ăn đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của tỉnh. Lãnh đạo tỉnh đã ra lời kêu gọi toàn dân thi đua thực hành tiết kiệm, phát huy mọi tiềm năng thế mạnh sẵn có, tập trung sức mạnh tổng hợp để giải quyết tốt vấn đề lương thực. Như phần trên đã nêu, giai đoạn này không chỉ có Văn phòng UBND tỉnh mà tất cả các cơ quan đơn vị, cán bộ công nhân viên nông, lâm trường, xí nghiệp, quân đội, trường học đều tổ chức sản xuất tự túc để tự lo thêm vấn đề lương thực, thực phẩm của cơ quan, đơn vị và gia đình. Cũng chính nhờ phong trào này mà bước đầu những khó khăn về cái ăn phần nào được giải quyết.
Bên cạnh đó, lãnh đạo tỉnh cũng đã tập trung chỉ đạo, thực hiện Chỉ thị 100/CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp; phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh.
Thực hiện Chỉ thị 100 đã tạo một luồng sinh khí mới, là sự đổi đời cho người nông dân, làm thay đổi hẳn bộ mặt của nông thôn. Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu cho lãnh đạo tỉnh tổ chức chỉ đạo, điều hành thực hiện tốt, mỗi huyện làm thí điểm "3 khoán" đối với một hợp tác xã để nhân rộng ra toàn tỉnh. Đến đầu năm 1981 đã có 80% hợp tác xã vùng đồng bằng và gò đồi thực hiện khoán sản phẩm 30 - 100% diện tích màu, 79,1% hợp tác xã khoán chăn nuôi lợn.
Để thực hiện tốt và đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác khoán, mở rộng hình thức khoán Nghị quyết 02-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bình - Trị - Thiên đã nhấn mạnh: "Hoàn chỉnh hơn nữa chế độ "3 khoán", có thưởng, phạt công minh của hợp tác xã đối với đội sản xuất (khoán chi phí, khoán công điểm, khoán sản phẩm). Đồng thời phải tích cực, chủ động và chỉ đạo chặt chẽ để mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong tất cả các hợp tác xã nông nghiệp (cả hợp tác xã tiên tiến và hợp tác xã kém ở phía Nam và phía Bắc), đối với cây trồng (lúa, màu, cây công nghiệp), chăn nuôi và ngành nghề khác của hợp tác xã, không áp dụng hình thức "khoán hộ" và kiên quyết khắc phục tình trạng "khoán trắng".
Quán triệt nội dung trên, lãnh đạo tỉnh đã tập trung chỉ đạo quyết liệt, kịp thời rút kinh nghiệm của giai đoạn đầu thực hiện thí điểm để triển khai đồng bộ tất cả các hợp tác xã nông nghiệp trong toàn tỉnh. Chỉ trong một thời gian ngắn, Bình - Trị - Thiên đã có 535 hợp tác xã thực hiện tốt công tác khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Kết quả là năng suất, sản lượng tăng rõ rệt, sự kết hợp giữa 3 lợi ích (Nhà nước, hợp tác xã, xã viên) thể hiện khá rõ, tạo được sự chuyển biến tích cực trong tâm lý của xã viên. Năm 1981, có 37 hợp tác xã đạt năng suất lúa trên 5 tấn/ha (có 7 hợp tác xã đạt 7 tấn, trong đó có 2 hợp tác xã của huyện Triệu Hải là An Phú Tài, Long Hưng và hợp tác xã Đông Giang); có 54 hợp tác xã đạt trên 3 tấn/ha. Do đó, vụ Đông Xuân năm 1981 - 1982, sản lượng lương thực để phân phối tăng 64% so với bình quân của cả 5 năm trước, làm nghĩa vụ Nhà nước tăng 91%, chia cho xã viên tăng gần 70%, năng suất lúa toàn tỉnh đạt từ 15,95 tạ/ha năm 1981 tăng lên 21,5 tạ/ha năm 1984; 46% diện tích gieo trồng 2 vụ lúa đạt 5 tấn/ha. Diện tích của tất cả các loại cây trồng đều tăng: cây thực phẩm tăng 9,5%, cây công nghiệp ngắn ngày tăng 3,3%. Đã trồng mới 710 ha rừng tập trung, năm 1984 trồng được 2.000 ha rừng và 28 triệu cây phân tán. Điển hình là hợp tác xã Hiếu Nam (Đông Hà) có 110 ha rừng, hợp tác xã Triệu An (Triệu Hải) bình quân mỗi hộ trồng 6.000 cây có độ tuổi trong vòng 7 - 8 năm. Huyện Bến Hải trồng được 2,6 triệu cây phân tán, năm 1984 toàn huyện Bến Hải có 12 xã đạt và vượt chỉ tiêu của phong trào huyện phát động xã 1 triệu cây). Chăn nuôi phát triển khá hơn trước, tổng đàn lợn tăng 3,4%, bò tăng 6,3%, trâu tăng 3,5%.
Toàn tỉnh có 8/11 cơ sở, 13/16 sản phẩm chủ yếu đã đạt và vượt kế hoạch giá trị sản lượng hàng hoá, giao nộp sản phẩm vượt từ 30 -40%. Một số mặt hàng mới xuất hiện, có giá trị như sản xuất đất đèn, thuốc trừ sâu, chè hương Bến Hải để phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Năm 1984, giá trị xuất khẩu đạt 24 triệu đồng, vượt kế hoạch 6% và tăng 33,3% so với năm 1980. Thu ngân sách đạt 121 triệu đồng, vượt kế hoạch 8 triệu đồng.[1]. Hoàng Hữu Phong, nguyên Phó Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên
|
Lễ tiếp nhận hàng cứu trợ bão lụt của Đoàn Biêlôrutxia năm 1985 |
Tập thể Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên vẫn tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của mình, biết bám sát đường lối và chủ trương của Trung ương Đảng, của tỉnh Đảng bộ, trên cơ sở thực tiễn tình hình của tỉnh kịp thời đề xuất tham mưu cho lãnh đạo UBND tỉnh các giải pháp chỉ đạo để tổ chức thực hiện có hiệu quả đồng thời: cả 3 cuộc cách mạng đó là: Cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng về khoa học kỹ thuật, cách mạng về tư tưởng văn hoá. Các giải pháp tham mưu chủ yếu để thực hiện các nội dung trên là:Hoàn thành nhanh và cơ bản về hợp tác hoá nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất ở nông thôn đồng bằng; kết hợp xây dựng kinh tế tập thể với việc phát triển kinh tế gia đình, kinh tế vườn; tạo điều kiện cho các hợp tác xã mở rộng liên kết sản xuất, kinh doanh, quy hoạch và phát huy lợi thế của các vùng: vùng màu, vùng ruộng trũng, vùng gò đồi để chỉ đạo sản xuất thâm canh lúa, trồng màu, trồng cây công nghiệp và phát triển chăn nuôi. Tiếp tục thực hiện tốt việc cải tạo công, thương nghiệp. Toàn tỉnh đã xây dựng 630 hợp tác xã nông nghiệp, 150 hợp tác xã ngư nghiệp, 5.000 hợp tác xã và tập đoàn sản xuất tiểu thủ công nghiệp, 300 hợp tác xã mua bán và 300 hợp tác xã tín dụng... (năm 1984).
Tổ chức và tuyên truyền sâu rộng việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đặc biệt là kỹ thuật thâm canh tăng năng suất cây lúa, màu, cây công nghiệp; tại các xí nghiệp, nhờ có áp dụng các tiến bộ khoa học và cải tiến quản lý nên năng suất và chất lượng sản phẩm tăng rõ rệt.
Xây dựng và thiết lập quan hệ sản xuất XHCN làm cơ sở để chuyển biến mạnh mẽ về nếp nghĩ cách sống và cách làm ăn của con người. Tập trung xây dựng con người mới XHCN có năng lực và trình độ, giàu tình nhân ái bao dung, trọng lẽ phải, hăng say cống hiến để đóng góp xây dựng quê hương Bình - Trị - Thiên ngày càng đổi mới và phát triển.
Cùng với việc tích cực tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo UBND tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã trực tiếp lập kế hoạch phục vụ và tổ chức đón tiếp 131 đoàn khách quốc tế (gồm 489 người ở trên 31 nước) đến thăm và làm việc với tỉnh. Công tác đón tiếp và tổ chức làm việc với khách nói chung được chu đáo và có kết quả, đã gây cảm tình và ấn tượng tốt đối với cán bộ, nhân dân trong tỉnh, góp phần thuyết phục và tranh thủ bạn bè quốc tế tiếp tục viện trợ cho tỉnh, xác định được khả năng và triển vọng hợp tác kinh tế, xuất nhập khẩu giữa của tỉnh với một số tổ chức quốc tế và một số nước anh em như việc hợp tác trồng hồ tiêu với Cộng hoà Dân chủ Đức; Chương trình viện trợ dài hạn của các tổ chức Liên hiệp quốc (PAM...) về thuỷ lợi và trồng rừng; Chương trình kết nghĩa với các tỉnh của các nước bạn bè như Savannakhet (Lào), Bô-lô-nha (Ý); Bêlaruxia (Liên Xô)…[1].
Năm 1985, vấn đề giá cả trong cả nước ngày càng trở thành bất cập và hết sức nóng bỏng, có tác động lớn đến mọi mặt đời sống xã hội. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII khai mạc ngày 01/7/1985 để bàn về chuyên đề giá - lương - tiền và đi đến quyết định xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Giải pháp và bước đi chủ yếu cũng đã được hoạch định rõ là phải "Khẩn trương, kiên quyết, nhưng phải tính toán thận trọng các phương án vững chắc".
Để triển khai thực hiện Nghị quyết VIII của Ban Chấp hành Trung ương, trong 2 ngày 25 - 26/6/1985, Thường vụ Tỉnh uỷ họp và đã quyết định "Phải khẩn trương chuẩn bị chu đáo về mọi mặt để trong một thời gian ngắn làm đồng bộ và thống nhất với cả nước. Trước hết là quán triệt sâu sắc Nghị quyết đến các cấp, các ngành trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Chuẩn bị các phương án cụ thể về giá - lương - tiền và các chính sách; chuẩn bị lực lượng vật chất, ít nhất đảm bảo chi dùng trong một quý (lương thực, hàng hoá, tiền mặt )và phương thức phân phối, phục vụ. Đẩy nhanh công tác cải tạo tư thương, quản lý thị trường, đồng thời khẩn trường tiến hành cải tạo công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tư nhân, bảo đảm cho Nhà nước nắm được hàng, được tiền. Sử dụng nhiều hình thức linh hoạt để hợp tác kinh doanh giữa Nhà nước và tư nhân, sắp xếp lại người buôn bán nhỏ, chuẩn bị cho việc tính đủ chi phí hợp lý vào giá thành sản phẩm".
Cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền bắt đầu triển khai thực hiện từ ngày 14/9/1985, trước hết là tổ chức đổi tiền (1đồng tiền mới = 10 đồng tiền cũ), thực hiện chế độ 1 giá kinh doanh, xoá bỏ hoàn toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho người ăn lương.
UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Tỉnh uỷ lần thứ 10 là xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh XHCN mà trước hết là xoá bỏ bao cấp trong giá và lương, đây là khâu đột phá có tính quyết định để chuyển sang cơ chế mới. Hoạt động của các ngành phân phối lưu thông, ngân hàng, tài chính, vật giá đã có sự chuyển biến về ý thức trách nhiệm về tổ chức bộ máy, mở rộng mạng lưới, đổi mới phương thức kinh doanh, phong cách phục vụ, tích cực nắm hàng, nắm tiền, nhất là những nơi đã gắn thu nhập của công nhân, viên chức với định mức doanh thu. Công tác sắp xếp, quản lý thị trường có tiến bộ. Tập trung chỉ đạo làm thí điểm ở xí nghiệp vôi Long Thọ, xí nghiệp xi măng Đông Hà để tổ chức rút kinh nghiệm trước khi triển khai rộng trên toàn tỉnh. Kết quả là đã có sự chuyển biến tích cực về sắp xếp lại tổ chức, quản lý lao động, giảm định mức tiêu hao vật tư, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm, bảo đảm sản xuất có lãi, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, tăng tích luỹ cho xí nghiệp, cải thiện được đời sống của công nhân, phát huy tốt quyền làm chủ của người lao động; cán bộ, công nhân được nhận lương bằng giá trị nên đã chủ động trong chi tiêu, không lệ thuộc vào tem phiếu, thủ tục phiền hà như trước đây nên đã kích thích được lao động và tinh thần phấn khởi hơn.
Sau mất mùa vụ Đông Xuân, tiếp đến là 2 trận bão lũ lớn chưa từng có, đặc biệt là cơn bão số 8, tháng 10/1985 đã gây thiệt hại nặng nề toàn diện trên diện rộng toàn tỉnh, đã tạo nên những khó khăn rất nghiêm trọng. Hàng chục vạn người trong tỉnh, nhất là vùng đầm phá, ven biển, vùng bị bão lũ nặng, vùng bị mất mùa liên tiếp và vùng núi đời sống đang gặp phải rất nhiều khó khăn, nguy cơ đói đe dọa. Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên lại lao vào cuộc chiến mới đột xuất, cấp bách là tham mưu cho lãnh đạo tỉnh kịp thời kêu gọi, vận động nhân dân trong toàn tỉnh phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tương thân tương ái, giúp đỡ, đùm bọc cưu mang lẫn nhau để sớm ổn định cuộc sống, khắc phục nhanh hậu quả thiên tai, đồng thời kêu gọi sự chi viện, hỗ trợ của Trung ương, các tỉnh bạn, các tổ chức trong và ngoài nước để giảm bớt gánh nặng khó khăn cho tỉnh; động viên nhân dân tiếp tục đẩy mạnh sản xuất rau màu cứu đói…
Toàn thể lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên chức của Văn phòng UBND tỉnh đã nêu cao ý thức trách nhiệm, cùng với các đồng chí lãnh đạo về tận các cơ sở, ngày đêm tổ chức tiếp nhận hàng cứu trợ, phối hợp chặt chẽ với UBND các huyện, thị xã tổ chức điều tra, khảo sát những thiệt hại thực tế của từng địa bàn để lập phương án cứu trợ kịp thời trước mắt, cứu đói lâu dài (nhất là trong thời kỳ giáp hạt) cho nhân dân. Trong thiên tai, sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể nhất là cơ sở đã thể hiện tính tích cực, khẩn trương, năng động, bám sát địa bàn nên rất nhiều nơi đã hạn chế được tổn thất. Đại bộ phận cán bộ, Đảng viên, Đoàn viên cơ sở dũng cảm, tận tuỵ, xông pha, sáng tạo, nêu cao trách nhiệm trước Đảng, trước dân lúc gian nan hiểm nghèo; Đoàn thanh niên đã kịp thời huy động và tổ chức 810 đội xung kích đi cứu dân, cứu tài sản. Đội thanh niên xung kích Bệnh viện A Vĩnh Linh xông pha trong mưa bão đưa 138 bệnh nhân ra khỏi bệnh viện trước khi nhà sập… Ngày 07/12/1985, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh kịp thời ra Chỉ thị khẩn cấp. Chỉ thị nêu rõ: "Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về định giá - lương - tiền gắn chặt với khắc phục hậu quả thiên tai". Nhờ vậy, sau bão lũ nạn đói, dịch bệnh đã được khống chế, cuộc sống người dân từng bước được ổn định, mọi sinh hoạt lao động sản xuất, xây dựng, học tập và công tác của người dân dần dần trở lại bình thường.
10 năm cải tạo và xây dựng XHCN (1976 - 1986), Bình - Trị - Thiên đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách: cơ sở hạ tầng quá yếu kém, đời sống nhân dân trong tỉnh còn nghèo, giá cả tăng cao, trong lúc đó thiên tai liên tiếp xảy ra, hạn hán, rét đậm, bão lụt dồn dập ập đến các năm 1983, 1984, 1985 gây thiệt hại nặng nề về người và của, sản xuất và xây dựng. Nhưng nhờ biết huy động sức mạnh tổng hợp, ý chí tự lực tự cường quyết chí vươn lên của người dân Bình - Trị - Thiên kết hợp với sự hỗ trợ của Trung ương, các tỉnh bạn và các tổ chức quốc tế nên bộ mặt quê hương Bình - Trị - Thiên đã có bước thay đổi đi lên rất rõ. Từ một nền kinh tế tự cung tự cấp đã chuyển sang có sản xuất hàng hoá; từ độc canh cây lương thực đã tiến tới phát triển nông nghiệp toàn diện; từ chỗ bao cấp, ỷ lại đã bắt đầu biết hạch toán kinh tế, phát huy tiềm năng sẵn có từ cơ sở. Nhiều nhân tố mới xuất hiện có tác động tích cực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục phát triển đi lên đúng hướng, tạo tiền đề vững chắc để cho tỉnh chuẩn bị bước sang một giai đoạn mới: Kế hoạch 5 năm (1986 - 1990).
Hoạt động tham mưu, giúp việc của Văn phòng trong giai đoạn 1986 - 1989.
Cùng với UBND tỉnh, các cơ quan hành chính nhà nước được củng cố để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước sang năm 1986, những sai lầm, khuyết điểm trong quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội và những sai lầm nghiêm trọng của cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền năm 1985 tác động mạnh đến tình hình mọi mặt của đất nước, mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, nhất là trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tỉnh cũng đang đứng trước những thách thức mới, những khó khăn gay gắt. Tuy nhiên, nhờ tổ chức thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết 6, 7, 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V); Nghị quyết 10, 11, 12 (khóa III) của tỉnh Đảng bộ, với những cách làm năng động, sáng tạo và có những bước đi phù hợp nên đã có tác động lớn, tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ đến các hoạt động sản xuất và đời sống, cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch từng bước được đổi mới. Nông nghiệp tiếp tục phát triển toàn diện, cơ sở vật chất kỹ thuật từng bước được đầu tư tạo thêm năng lực mới cho sản xuất. Năm 1986 là năm quan trọng có ý nghĩa tạo tiền đề cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, góp phần đưa nền kinh tế - xã hội của tỉnh từng bước đi vào thế ổn định.
[1]. Báo cáo của UBND tỉnh tại Kỳ họp thứ 4, khoá III, ngày 09/01/1986.
Đồng chí Tố Hữu thăm Khu trung tâm Thương Bạc năm 1986 |
Thực hiện Nghị quyết 13 của Tỉnh uỷ về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội năm 1986; Nghị quyết số 27 của Thường vụ Tỉnh uỷ về việc "Làm thử bảo đảm quyền chủ động sản xuất, kinh doanh về tài chính cơ sở"; Nghị quyết 82 của Thường vụ Tỉnh uỷ về "Tăng cường nắm hàng quản lý chặt chẽ hàng hóa, tiền tệ"; Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên trực tiếp cùng các ngành tham mưu cho lãnh đạo tỉnh tập trung chỉ đạo thí điểm 5 đơn vị, trong đó có Nông trường Tân Lâm để thực hiện quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính; khắc phục nhanh tình trạng vật tư chuyển về không kịp thời để phục vụ đối lưu với nông dân, tình trạng tư thương về nông thôn vét hàng, tranh mua tranh bán giữa các công ty… Nhờ sự chỉ đạo sát sao, chặt chẽ, nền kinh tế - xã hội của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 1986 đã có bước phát triển khá toàn diện. Sản lượng lúa đạt 203.223 tấn, vượt 3,5% kế hoạch. Có 39 hợp tác xã đạt năng suất trên 5 tấn/ha/vụ (riêng Triệu Hải đã có 18 hợp tác xã), 6 hợp tác xã đạt năng suất 6 tấn/ha/vụ, trong đó huyện Triệu Hải có 3 hợp tác xã: (Bích La, Long Hưng, Trầm Lý) đã trồng 15.485 ha cây công nghiệp ngắn ngày để phục vụ xuất khẩu, tăng 532 ha so với vụ Đông Xuân trước; đánh bắt được 8.786 tấn thủy, hải sản.
Phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh, một số công ty, xí nghiệp đã bắt đầu vươn lên tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, chủ động sắp xếp lại sản xuất, thay đổi cơ cấu mặt hàng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, mở rộng liên doanh, liên kết, tự xoay chạy vật tư nguyên liệu để duy trì và phát triển sản xuất. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 849 triệu đồng, tăng 15% so với cùng kỳ năm 1985; 44/80 xí nghiệp tăng giá trị tổng sản lượng, 18 xí nghiệp có tốc độ tăng nhanh, trong đó có gốm Thanh Quảng, Quảng Trị.
Các hoạt động của các Hội, Đoàn thể phát triển mạnh, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Đặc biệt là phong trào “Hành quân theo chân Bác” của Đoàn Thanh niên đã thu hút hàng vạn thanh niên tham gia lao động xung kích trên 21 công trình. Trong đó có công trình thuỷ lợi Kinh Môn (huyện Bến Hải). Phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật phát triển cả chất lượng và số lượng, đã có 947 sáng kiến, trong đó có 81 sáng kiến đã đưa vào áp dụng trong sản xuất, kinh doanh, làm lợi cho Nhà nước trên 2 triệu đồng.
Thực hiện “Những việc cần làm ngay” do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khởi xướng…; Nghị quyết 6 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã một lần nữa khẳng định sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tỉnh là: "Ai là sự hiện thân của sự đổi mới thì tồn tại và phát triển. Ai không thể là hiện thân của sự đổi mới sẽ là trở lực cho quá trình đổi mới". Chính vì vậy, cả Tỉnh uỷ và UBND tỉnh Bình Trị Thiên cũng đã dồn công sức, thời gian và trí tuệ để thực hiện quá trình đổi mới một cách toàn diện trên tất cả lĩnh vực kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng và đời sống xã hội.
Phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp trọng tâm được lựa chọn và tập trung chỉ đạo của giai đoạn này là:
- Xác định quan điểm và cố gắng đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, tập trung tổ chức thực hiện tốt 3 chương trình kinh tế, đặc biệt là chương trình lương thực, thực phẩm.
- Củng cố, tăng cường kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, có chính sách phát huy những khả năng tích cực của các thành phần kinh tế khác, tiếp tục cải tạo XHCN theo quan điểm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, mạnh dạn điều chỉnh hình thức, điều chỉnh quy mô cho phù hợp với trình độ sản xuất, trình độ quản lý ở từng vùng (nông thôn, đồng bằng, miền biển, miền núi…) cải tiến và hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm trong các hợp tác xã nông nghiệp.
- Chuyển nhanh các hoạt động kinh tế sang cơ chế quản lý hoạch toán kinh doanh XHCN, phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh của cơ sở và làm tốt chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế; Làm tốt công tác phân phối lưu thông để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và giảm bớt dần khó khăn về đời sống của người hưởng lương.
- Ứng dụng mạnh mẽ các kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, kinh doanh. Mở rộng, nâng cao chất lượng xuất nhập khẩu, hợp tác kinh tế với các tỉnh và các nước. Triệt để thực hành tiết kiệm.
- Thực hiện tốt việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ, tinh giảm biên chế hành chính.
Qua quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã xác định trong nhiều yêu cầu của sự đổi mới thì đổi mới về kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài. Chính vì vậy, trên cơ sở những bài học được rút ra từ thực tế tổ chức thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981), ngày 05/4/1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10/NQ-TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Đây là sự điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện Chỉ thị 100 về thực hiện cơ chế khoán mới trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, xác định rõ hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị trực tiếp nhận khoán với hợp tác xã (thường được gọi tắt là "khoán 10" hoặc "khoán hộ"). Nghị quyết 10 đã đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi cấp bách sản xuất và đời sống, đã thực sự hợp với lòng dân, đặc biệt là đối với người nông dân.
Vụ Đông Xuân 1988 - 1989, trên địa bàn Quảng Trị đã có 100% hợp tác xã thực hiện "khoán 10". Nhiều hợp tác xã đã chủ động, sáng tạo tự điều chỉnh mô hình và tổ chức sản xuất. Ở Quảng Trị năm 1987 chỉ có 194 hợp tác xã thì đến năm 1989 đã tăng lên 226 hợp tác xã. Những nhu cầu về lương thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu của nhân dân lúc này đã cơ bản được đảm bảo.
Kể từ bấy giờ, một không khí mới bắt đầu xuất hiện, ra sức thi đua "Phát triển kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh XHCN" để xây dựng cuộc sống mới, thúc đẩy nhanh hơn quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của tỉnh. Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu cho lãnh đạo tỉnh tập trung chỉ đạo, vận động và hướng dẫn nhân dân nhất là dân ở khu vực thành thị tự bỏ vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh thu hút lao động, mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học, năng động tự xoay chạy vật tư, nguyên liệu để tạo ra nhiều mặt hàng mới, làm tăng nhanh nguồn thu cho tỉnh và nâng dần sức sản xuất, kinh doanh của mình. Nhờ vậy, số người tham gia lao động ở khu vực ngoài quốc doanh tăng nhanh: Năm 1988, toàn tỉnh đã thu hút gần 10.000 lao động vào các cơ sở công nghiệp ngoài quốc doanh; các cơ sở sản xuất tập thể đã huy động 1,187 tỉ đồng để đầu tư cho sản xuất, mở ra 24 cơ sở sản xuất mới với tổng vốn trên 460 triệu đồng, 883 hộ gia đình mạnh dạn đầu tư 667 triệu đồng để phát triển sản xuất, tạo việc làm mới cho 3383 lao động. Trong 6 tháng đầu năm 1988, doanh thu của các cơ sở tiểu thủ công nghiệp đạt 1.150 triệu đồng, bằng 113,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt 47,8% kế hoạch năm.
|
Đoàn Liên Xô thăm tỉnh Bình - Trị - Thiên |
Thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (5/1988) và Chỉ thị 80-CT/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về các biện pháp cấp bách chống lạm phát, UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã giải thể các trạm kiểm soát trên các trục giao thông Quốc lộ 1 từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân làm cho việc mua bán lưu thông hàng hóa thuận lợi hơn, được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Tình hình cung ứng lương thực, thực phẩm bớt gay gắt, thị trường hàng hóa sôi động hơn trước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện do chưa có kinh nghiệm và phương thức quản lý chưa thích hợp nên còn nhiều thiếu sót. Tình trạng đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế diễn ra phức tạp làm ảnh hưởng đến việc quản lý thị trường, bình ổn giá cả.Tháng 7/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 16-NQ/TW về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý các cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh; xác định rõ các hình thức tổ chức sản xuất của thời kỳ quá độ đã tạo điều kiện cho các đơn vị sản xuất ngoài quốc doanh phát triển. Năm 1988, toàn tỉnh có 10 nghìn lao động ở các xí nghiệp công nghiệp, thủ công nghiệp, bao gồm 2.500 người thuộc kinh tế tập thể, gần 150 người thuộc doanh nghiệp tư nhân, 7.000 lao động cá thể. Sự đóng góp của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong việc sản xuất ra của cải vật chất, ngân sách Nhà nước ngày càng tăng, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Đây cũng là cơ sở thực tiễn cho việc đổi mới cơ cấu kinh tế nhiều thành phần sau này.
Thực hiện việc đổi mới cơ chế quản lý trên các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp lưu thông phân phối đã tạo cho nền kinh tế có những chuyển biến bước đầu, có sự tăng trưởng. Cơ chế quản lý kinh tế mới đã có tác dụng từng bước xóa bỏ bao cấp, phát huy tính năng động sáng tạo của cơ sở, chăm lo nguồn thu nhập chính đáng của người lao động là động lực của sự phát triển.
UBND tỉnh và các cơ quan hành chính nhà nước trong thời kỳ này đã có những cố gắng tạo điều kiện môi trường, cơ chế chính sách để bảo đảm cho cơ chế mới được vận hành thông suốt. Tuy nhiên, quá trình đổi mới cơ chế quản lý còn nhiều tồn tại cần tiếp tục giải quyết. Đó là năng lực quản lý theo cơ chế mới còn nhiều hạn chế; tư tưởng bao cấp, ỷ lại nặng nề; nền kinh tế còn mang nặng tính tự cung tự cấp.
Cùng với việc điều hành các hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế, các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Bình - Trị - Thiên đã đẩy mạnh các hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, góp phần ổn định tình hình, từng bước cùng cả nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Giai đoạn này, tình hình thế giới đang diễn ra những biến động hết sức phức tạp và chiều hướng xấu, bất lợi cũng đã bắt đầu xuất hiện. Đặc biệt là quá trình cải cách, cải tổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đi vào thế bất lợi và có dấu hiệu bị sụp đổ. Lợi dụng tình thế đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước tăng cường ráo riết chống phá cách mạng nước ta. Riêng ở Bình - Trị - Thiên, chúng tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt, với những thủ đoạn hết sức thâm độc như:
Lực lượng bộ đội biên phòng Quảng Trị tăng cường tuần tra giữ vững tuyến biên giới |
tung bọn tình báo, gián điệp, biệt kích; dùng "chiến tranh hàng hoá" từ biên giới tràn vào (đặc biệt là ở Lao Bảo - Khe Sanh, huyện Hướng Hoá) để thực hiện âm mưu phá hoại kinh tế, lũng đoạn giá cả làm rối loạn thị trường, lung lạc và làm hư hỏng cán bộ; thông qua các hoạt động phát thanh, báo chí, thư tín, tiền hàng, truyền đơn để lôi kéo và kích động lực lượng phản động nổi dậy chống phá, kích động vượt biên...
Hiện tượng tiêu cực như xâm phạm tài sản XHCN, đầu cơ, buôn lậu, phạm pháp hình sự trong tỉnh ngày càng có chiều hướng gia tăng.Trước tình hình phức tạp đó, để đảm bảo vững chắc những thành quả của công cuộc đổi mới, ngày 10/5/1988, Tỉnh ủy Bình - Trị - Thiên đã kịp thời ra Nghị quyết số 11 về "Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới". Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu cho lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo chính quyền các cấp, các ngành, đặc biệt là các ngành trong khối nội chính phát động phong trào nhân dân tích cực tham gia phát hiện đấu tranh chống mọi âm mưu và thủ đoạn thù địch, phá hoại của bọn phản động bên ngoài xâm nhập vào, đề cao cảnh giác đập tan sự kích động bạo loạn, chống phá của các phần tử từng tham gia quân đội và chính quyền Sài Gòn không chịu cải tạo, đấu tranh quyết liệt với những hiện tượng tiêu cực trong cán bộ và nhân dân. Nhờ vậy, mọi thủ đoạn thâm độc của kẻ thù (cả bên trong và bên ngoài) đều đã được chặn đứng và đập tan. Đặc biệt là vụ tên Hoàng Cơ Minh tổ chức lực lượng phản động bên ngoài, vượt biên vào móc nối với bọn phản động nội địa để chuẩn bị các hoạt động bạo loạn, lật đổ chính quyền đã bị ta kịp thời phát giác và đập tan. Lãnh đạo tỉnh cũng đã nhanh chóng mở Hội nghị Biên giới tại Đông Hà và đã trực tiếp chỉ đạo UBND huyện Hướng Hoá có những biện pháp linh hoạt, nhạy bén để phối hợp với tỉnh Savanakhet và các tỉnh của nước bạn Lào có chung đường biên giới với Bình - Trị - Thiên để giữ vững ổn định tình hình tuyến biên giới (nhất là tuyến đường 9 - Quảng Trị).
Sau 13 năm hợp nhất Bình - Trị - Thiên (1976 - 1989); toàn Đảng, toàn quân, và toàn dân trong tỉnh đã chung sức chung lòng, đoàn kết nhất trí quyết tâm cải tạo và xây dựng quê hương. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự điều hành của UBND tỉnh và sự quan tâm hỗ trợ có hiệu quả của Trung ương Đảng, Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương, các tỉnh bạn, các nước và các Tổ chức Quốc tế; Đảng bộ và nhân dân Bình - Trị - Thiên đã vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, bền sức, đồng lòng quyết tâm đưa sự nghiệp xây dựng CNXH của tỉnh đạt được những thành tựu có ý nghĩa to lớn sau 4 kỳ Đại hội tỉnh Đảng bộ đề ra.
Qua 13 năm hợp nhất, vượt qua những khó khăn, gian khổ ban đầu, tập thể lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên chức của Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã luôn luôn phấn đấu vươn lên trong bất luận hoàn cảnh khó khăn nào cũng quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của mình; thường xuyên bám sát ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Tỉnh uỷ, các ngành và UBND các cấp để tìm bằng được những quyết sách lớn có tầm chiến lược, những bước đi kể cả những giải pháp tình thế cũng như lâu dài để giúp lãnh đạo tỉnh tổ chức chỉ đạo thực hiện một cách phù hợp, khoa học, góp phần không nhỏ công sức, trí tuệ của mình vào thắng lợi chung của cả tỉnh. Thời gian không dài so với chặng đường phát triển chung, nhưng những kỷ niệm khó quên của những ngày đồng cam cộng khổ, chăm lo cho nhau từng cân lương thực, thực phẩm, giúp nhau vừa ổn định cuộc sống, vừa làm tốt công tác tham mưu, phục vụ, vững vàng trong thời điểm đầy biến động; tập thể Văn phòng UBND tỉnh từng bước trưởng thành và trở thành một đơn vị vững mạnh, xứng đáng với sự tin yêu của lãnh đạo UBND tỉnh và của nhân dân.
Văn phòng UBND tỉnh Bình - Trị - Thiên đã hoàn thành nhiệm vụ và sứ mệnh lịch sử của mình, kết thúc một chặng đường thực sự có ý nghĩa để cho Văn phòng UBND tỉnh Quảng Trị có điều kiện tiếp nối và phát huy, khi trở về đúng với tên gọi của chính mình, tỉnh Quảng Trị chính thức lập lại (01/7/1989).