Chi tiết tin - VPUBND Tỉnh

VĂN PHÒNG UBND TỈNH QUẢNG TRỊ NAM VĨ TUYẾN 17.

18-03-2022 08:54:32

1. Bối cảnh lịch sử.

Từ ngày 25/8/1954, Chính quyền chính thức của ta ở phía Nam sông Bến Hải không còn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi quyền dân sinh, dân chủ, tạo thế tiến lên thực hiện “Tiến công và nổi dậy” giải phóng quê hương ngày 01/5//1972 và thành lập UBNDCM tỉnh Quảng Trị
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn lật lọng của địch, ngày 03/8/1954, Liên Khu ủy Khu 4 đã ban hành Chỉ thị số 178/LK4 yêu cầu tỉnh Quảng Trị, tỉnh Thừa Thiên thực hiện ngay 4 nhiệm vụ trọng tâm:
- Củng cố chính quyền, chuyển hướng công tác về lâu dài, công tác tư tưởng, mạnh dạn thâm nhập các tổ chức địch, tổ chức và bảo vệ cơ sở Đảng, sắp xếp cán bộ Lãnh đạo tỉnh, huyện, xã.
- Giữ vững thông tin liên lạc giữa tỉnh với Liên khu và Trung ương, tổ chức đường dây bí mật.
- Bố trí lực lượng, cất dấu vũ khí chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
- Vùng Bắc giới tuyến tiến hành các nhiệm vụ giải quyết hậu quả chiến tranh ở vùng mới giải phóng, chống cưỡng ép di cư, tiếp quản tốt vùng địch rút lui, đón tiếp bộ đội, cán bộ và đồng bào Miền Nam tập kết ra Bắc, tăng cường giữ gìn trật tự trị an trước tình hình mới.
Đồng chí Phan Văn Khánh, Tỉnh ủy viên, Chánh Văn phòng cấp ủy và Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh được cử đi tiếp thu nội dung của Hiệp định Giơ-ne-vơ, tình hình và nhiệm vụ mới vừa trở về đã cùng với đồng chí Hoàng Đình Hiệt, Phó Văn phòng khẩn trương chuẩn bị chương trình, kế hoạch giúp Cấp ủy và Ủy ban triển khai kịp thời và nghiêm túc Chỉ thị của Liên khu và Nghị quyết của Tỉnh ủy.
Thời hạn 25 ngày kể từ ngày Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam bắt đầu có hiệu lực (01/8/1954 ở Trung bộ) kết thúc. Công tác bố trí, sắp xếp cán bộ đi tập kết, ở lại (Văn phòng có đồng chí Hoàng Đình Hiệt làm Chánh Văn phòng cấp uỷ mới) và một số nhiệm vụ cần kíp khác căn bản xong. Ngày 25/8/1954, một Tổ công an giới tuyến của ta do đồng chí Nguyễn Anh Thạc phụ trách triển khai đóng đồn Hiền Lương trên trục đường số 1, phía Bắc đầu cầu Hiền Lương (đối diện đồn cảnh sát ngụy đóng bên Xuân Hòa), có nhiệm vụ bảo vệ lá cờ Tổ quốc đầu cầu Miền Bắc, kiểm soát việc đi lại, trao đổi bưu thiếp, thư tín giữa hai miền, quan hệ giao dịch với cảnh sát ngụy trên cầu Hiền Lương.
Quảng Trị vùng phía Nam giới tuyến, đã từ lâu cả miền núi rừng rộng lớn, vùng ven biển dài từ Bắc vào Nam và tuyệt đại bộ phận nông thôn, đồng bằng nơi đây đều là vùng tự do, vùng căn cứ du kích, vùng du kích liên hoàn do ta làm chủ, nay trở thành vùng địch kiểm soát. Tại nơi đây, từ chỗ ta có chính quyền từ cơ sở, có lực lượng vũ trang mạnh nay chỉ còn lực lượng chính trị. Từ chỗ ta dùng phương pháp đấu tranh vũ trang, du kích chiến đấu là chủ yếu nay phải chuyển sang đấu tranh chính trị. Từ chỗ tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng cách mạng đều hoạt động công khai là chủ yếu, nay phải chuyển vào hoạt động bí mật. Tổ chức Chính quyền của ta chính thức không tồn tại ở giai đoạn này.
Nhiệm vụ chủ yếu của đồng bào tại vùng phía Nam vĩ tuyến 17 lúc này là đấu tranh đòi Chính quyền Mỹ ngụy thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơ-ne-vơ, tiến tới hiệp thương giữa hai miền từ ngày 20/7/1955 và tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước tháng 7/1956. Đồng thời, cán bộ chủ chốt ở lại bám trụ phải chuẩn bị cả khả năng: đế quốc Mỹ ngoan cố phá hoại Hiệp định, chia cắt lâu dài đất nước ta, không có tổng tuyển cử thống nhất và có thể chiến tranh sẽ trở lại; nhưng trước hết, cán bộ chủ chốt phải tập trung nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ đồng thời chuẩn bị đối phó có hiệu quả khi đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định.
Tại Nghị quyết ngày 05/9/1954, để bổ sung cho Nghị quyết Trung ương lần thứ 6 (7/1954), Bộ Chính trị đã nêu rõ: "Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, cách mạng nước ta chuyển sang một thời kỳ mới, đất nước tiến hành hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam và cách mạng XHCN ở Miền Bắc. Cùng một lúc thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược cách mạng là một đặc điểm lớn. Đối với các Đảng bộ ở Miền Nam, trước mắt phải thực hiện ba nhiệm vụ cụ thể:
"Một là, đấu tranh đòi đối phương thi hành đúng Hiệp định
Giơ-ne-vơ.
Hai là, chuyển hướng công tác cho thích hợp với điều kiện mới, nắm vững phương châm, chính sách mới, sắp xếp cán bộ, bố trí lực lượng, vừa che dấu lực lượng, vừa lợi dụng các khả năng công khai hợp pháp.
Ba là, tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình, đấu tranh đánh đổ Ngô Đình Diệm, lập ra một chính quyền tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và cải thiện dân sinh".
Đế quốc Mỹ đã lợi dụng sự thất bại khốn cùng về mọi mặt của thực dân Pháp xâm lược ngay trên chiến trường Việt Nam và cả trên chính quốc nước Pháp, từng bước loại bỏ Bảo Đại và Mỹ ép buộc "Quốc trưởng Bảo Đại" ký dụ số 15 ngày 19/6/1954 bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng và "Ủy quyền Thủ tướng Chính phủ toàn quyền dân sự và quân sự".
Ngày 06/10/1954, "Quốc trưởng Bảo Đại" lại ủy nhiệm cho Ngô Đình Diệm đứng ra lập Chính phủ, Ngô Đình Diệm giữ chức vụ Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ. Đến ngày 23/10/1955, Chính phủ do Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng tổ chức cuộc trưng cầu ý kiến "thành lập chánh thể cộng hòa". Ngày 26/10/1955, với kết quả "trưng cầu ý dân", Bảo Đại Quốc trưởng bị phế truất. Ngô Đình Diệm tự phong là Quốc trưởng kiêm Thủ tướng. Theo Tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh, Hiến pháp chính quyền Ngô Đình Diệm thông qua năm 1956, "Ngô Đình Diệm, Tổng thống giữ quyền hành pháp, do "dân cử".
Sống dưới chính quyền Bảo Đại - Ngô Đình Diệm, chế độ cai trị Diệm - Nhu, tay sai của đế quốc Mỹ, nhân dân ở phía Nam giới tuyến thường xuyên bị bọn tay chân của ngụy quyền bắt bớ, tù đày, tẩy nảo, tố cộng, diệt cộng,... chặt đầu, mổ bụng, moi gan, trả thù những người tham gia kháng chiến cũ với quy mô rộng lớn, tràn lan với mức độ ác liệt chưa từng có. Chúng bắt mọi người phải thực hiện: "không tiếp tế cho cộng sản, không che dấu cộng sản, không liên lạc với cộng sản". Ngày 31/12/1959, một Bản báo cáo mật dày 26 trang của Phòng Nhì, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Quốc phòng ngụy quyền Sài Gòn đã phải thú nhận[1]: Tổ chức chính trị của Việt cộng (V.C) tại Nam vĩ tuyến 17: Sau ngày đình chiến 20/7/1954, V.C phải rút hết các cơ cấu chính trị cũng như quân sự tại Nam vĩ tuyến 17 ra Bắc, đúng theo tinh thần thực Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhưng trên thực tế, V.C đã để lại tại Miền Nam một số cơ sở và cán bộ bám sát từng địa phương để tiếp tục hoạt động ngấm ngầm làm hậu thuẫn cho ngày Tổng tuyển cử 20/7/1956.
"Phong trào cách mạng Miền Nam ra đời để lãnh đạo tất cả các hoạt động chính trị và quân sự tại Miền Nam, và hướng dẫn, phân phối cán bộ các nơi, V.C đã thành lập các cơ cấu đầu não lãnh đạo cũng như chỉ huy. Về mặt chính trị (hệ thống Đảng) tại Miền Nam, V.C có Liên khu ủy Liên khu V và Xứ ủy Nam bộ. Cả hai bộ phận này đều chịu dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Lao động V.C tại Miền Bắc. Hình thức địch vận của V.C, vì địch vận là một công tác chính yếu trong mọi hoạt động chính trị của V.C hiện nay, nên công tác này được tiến hành rất khoa học, linh động, tùy hoàn cảnh từng địa phương và dưới nhiều hình thức khác nhau, cho mỗi ngành riêng biệt (binh vận, dân vận, trí vận, Miên vận, chính quyền vận, thượng vận,...). Vì vậy, chính sách "vận" được V.C triệt để áp dụng, dựa theo những kinh nghiệm thiết thực trong những ngày khói lửa vừa qua... chính sách này được thi hành một cách mềm dẻo, linh hoạt nhưng hết sức bền bỉ và khôn khéo. Nếu những hoạt động địch vận không được loại trừ ngay từ bây giờ, nó có thể gây cho ta, lúc thời bình, nhiều khó khăn trong cuộc bình trị lãnh thổ và trong thời chiến, một hậu quả tai hại mà ai củng có thể suy đoán được".
Đời sống vật chất, kinh tế của đồng bào Quảng Trị phía Nam giới tuyến dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn vô cùng khó khăn, đói khổ. Theo báo cáo tổng kết khảo sát của ngụy quyền tỉnh Quảng Trị do Phó Tỉnh trưởng Nguyễn Hữu Thụ ký ngày 07/01/1956[2]: Dân số 230.000 người, trong đó 220.000 người Kinh, 10.000 người dân tộc, 300 người Hoa Kiều, 22 người Pháp Kiều.13.000 mẫu ruộng được cày cấy và thu được 13.000 tấn thóc/năm; 1.100 mẫu ruộng bỏ hoang; 1.000 mẫu công thổ bỏ hoang. Sống dựa vào "viện trợ kiểu Mỹ", Chính quyền Sài Gòn thân Mỹ với âm mưu hòng buộc trói đồng bào ta ngày càng chặt với Mỹ, sợ Mỹ, phục Mỹ và phục vụ cho đường lối chống cộng, thôn tính Miền Nam nước ta của đế quốc Mỹ.
Trong khó khăn gian khổ đó, phong trào cách mạng Quảng Trị cũng như trên toàn Miền Nam vẫn tiếp tục phát triển. Đấu tranh chính trị, chống địch khủng bố, tố cộng ở nông thôn phối hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân thành thị chống "viện trợ kiểu Mỹ', đòi xây dựng một nền kinh tế độc lập, chống tăng thuế, đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ. Một số nơi xuất hiện đấu tranh vũ trang....Đầu năm 1959, Ngô Đình Diệm tuyên bố "Miền Nam Việt Nam đang nằm trong tình trạng chiến tranh".
Đáp ứng yêu cầu của lịch sử, ngày 13/01/1959, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa 2) họp lần thứ 15, ra Nghị quyết lịch sử về cách mạng Miền Nam.
Tinh thần Nghị quyết 15 dần dần tỏa về tận cơ sở, địa phương, bắt đầu thổi bùng "ngọn lửa đồng khởi" trên toàn Miền Nam nói chung, ở địa bàn Quảng Trị nói riêng, tuy mức độ có khác nhau.

Phiên họp Tỉnh ủy kiểm điểm tình hình và công tác năm 1971 bàn quyết tâm thực hiện nhiệm vụ năm 1972 tại cơ quan Tỉnh ủy ở miền Tây

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh chống Mỹ cứu nước của đồng bào và chiến sỹ Quảng Trị liên tục phát triển với khí phách anh hùng hiếm có, với ý chí kiên cường, bền bỉ và lòng dũng cảm vô song để bảo vệ quyền lợi sống còn, bức thiết của mình là độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Thế trận chiến tranh nhân dân trên chiến trường Quảng Trị trong suốt thời kỳ chống Mỹ 7/1954 - 5/1972, diễn ra muôn màu muôn vẻ bằng sự kết hợp các phương thức chiến tranh du kích, chiến tranh chính quy do lực lượng vũ trang địa phương, quân chủ lực và toàn dân tiến hành, được thể hiện rõ nét trong phong trào đồng khởi, trong phá kìm, mở rộng quyền làm chủ, trong các chiến dịch tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, trong cuộc tiến công và nổi dậy giải phóng Quảng Trị ngày 01/5/1972. 

Quân giải phóng tiến vào cắm cờ trên cửa Thành Cổ Quảng Trị, 01/5/1972

Thông báo của UBMTDTGP tỉnh Quảng Trị về việc thành lập UBNDCM tỉnh ngày 05/7/1972

Thành lập UBNDCM tỉnh và tiến hành xây dựng trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại thị trấn Cam Lộ ngày 06/5/1973.
Quân và dân Quảng Trị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng vùng giải phóng vững mạnh, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè quốc tế khi đến với vùng đất này trong những ngày đầu giải phóng, càng nhân lên tình cảm và sự ủng hộ nhiệt thành của cộng đồng yêu chuộng hòa bình quốc tế với cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, để dân tộc ta sớm kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris, xây dựng và củng cố vùng giải phóng; tiến lên giải phóng hoàn toàn quê hương, tham gia giải phóng Huế - Đà Nẵng và góp phần tích cực thực hiện chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sau những đợt tiến công và nổi dậy vô cùng mãnh liệt và dũng cảm của quân, dân ta, ngày 01/5/1972, tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng. Đây là mốc son vô cùng quan trọng ghi nhận khu vực hành chính đầu tiên của Miền Nam được giải phóng và là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng trong công cuộc chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Trên cơ sở chỉ đạo của Bộ Chính trị và Nghị quyết cơ bản của Đại hội Đại biểu Quốc dân Miền Nam Việt Nam cũng như Chương trình hành động của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam về việc tổ chức chính quyền các cấp, ngày 05/6/1972, UBNDCM tỉnh Quảng Trị được thành lập. Quảng Trị là tỉnh đầu tiên ở Miền Nam được giải phóng. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng trong công cuộc chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta.
2. Tổ chức bộ máy của UBNDCM tỉnh Quảng Trị và Văn phòng UBNDCM tỉnh Miền Nam vĩ tuyến 17 từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ có hiệu lực đến ngày hợp nhất Bình - Trị - Thiên .
Trong tháng 6/1972, UBMT dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Trị, đại biểu UBMT dân tộc giải phóng các huyện và thị xã, đại biểu các đoàn thể, các tôn giáo, các dân tộc cùng nhiều vị nhân sỹ, trí thức trong tỉnh đã họp hội nghị liên tịch để đề cử UBNDCM tỉnh Quảng Trị.
Hội nghị đã nhất trí đề cử thành phần tham gia UBNDCM tỉnh bao gồm đầy đủ đại biểu thuộc các giai cấp, đại diện các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, nhân sỹ, trí thức yêu nước như sau:
Lãnh đạo Ủy ban:

  • Chủ tịch: Ông Lê San
  • Phó Chủ tịch: Ông Nguyễn Sanh
  • Phó Chủ tịch: Bà Trần Thị Hồng.

Các Ủy viên:

  • Ông Nguyễn Tập
  • Ông Phan Văn Khánh
  • Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường
  • Ông Hùng Sơn
  • Bà Nguyễn Thị Thái Bảo
  • Ông Hồ Văn Lôi
  • Ông Trần Phố
  • Ông Lê Ngọc Uynh
  • Ông Trần Văn Quy
  • Ông Hồ Văn Xinh
  • Ông Nguyễn Hoành.

Sự kiện UBNDCM tỉnh Quảng Trị được thành lập là một thắng lợi có ý nghĩa chính trị to lớn, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng của hơn 30 vạn đồng bào, chiến sỹ tỉnh Quảng Trị trong suốt chặng đường dài gần 30 năm qua. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, UBNDCM tỉnh Quảng Trị đã khẩn trương động viên, tổ chức nhân dân trong toàn tỉnh tiếp tục chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ quê hương giải phóng, tổ chức sản xuất để sớm ổn định đời sống của nhân dân, không ngừng chăm lo củng cố và phát triển lực lượng; kề vai sát cánh với đồng bào, chiến sỹ cả nước tiếp tục chiến đấu, quyết tâm giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sau khi chính quyền được thành lập, lực lượng chính trị từ cấp tỉnh đến cơ sở đã được củng cố và phát triển một cách mạnh mẽ. Toàn tỉnh có 2.143 đoàn viên Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng, 9.029 hội viên Thanh niên giải phóng, 21.222 hội viên Hội Phụ nữ giải phóng, 1.069 hội viên Hội Mẹ chiến sỹ, 16.564 hội viên Hội Nông dân giải phóng. Lực lượng cán bộ thuộc các thành phần từ cấp huyện, thị đến tỉnh có 2.080 người. Đảng bộ có 3.357 đảng viên [1].

Trước đó, dưới sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, UBNDCM tỉnh Quảng Trị cũng đã có sự phối hợp hiệp đồng chặt chẽ với Khu ủy, UBHC khu vực Vĩnh Linh, trong đó khu vực Vĩnh Linh chuẩn bị một lực lượng cán bộ cần thiết sẵn sàng điều động vào tăng cường cho tỉnh sau khi được giải phóng. Trên cơ sở đó, trong tháng 5/1972, Khu vực Vĩnh Linh đã kịp thời chi 

Cờ giải phóng tung bay nơi trung tâm đầu não ngụy tại Đông Hà, năm 1972

viện, điều động tăng cường cho UBNDCM tỉnh Quảng Trị 786 cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ trên các lĩnh vực để bố trí cho các ban ngành chức năng, các huyện, thị, xã, góp phần giúp bộ máy chính quyền khắp vùng giải phóng hoạt động có hiệu quả.    
Văn phòng UBNDCM tỉnh Quảng Trị ban đầu có trụ sở đóng ở thôn Lạc Tân (xã Gio Phong, huyện Gio Linh). Sau đó, do điều kiện thời chiến, trụ sở Văn phòng được chuyển lên thôn Tân Văn (vùng Tây Gio Linh) và cho đến khi Hiệp định Paris có hiệu lực thì Văn phòng chuyển về đóng tại thôn Đông Hà (nay là Phường 3, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị).
Nhằm khẩn trương đưa bộ máy chính quyền đi vào hoạt động có hiệu lực, đáp ứng được nhiệm vụ trong tình hình mới, ngay từ đầu tháng 7/1972, UBNDCM tỉnh đã thành lập các ty, ngành chức năng: Ty An ninh, Ty Nông lâm ngư, Ty Công thương, Ty Thông tin Văn hóa, Ty Giáo dục, Ty Y tế, Ty Giao thông vận tải, Bưu điện, Ty Cứu tế xã hội, Ty Tài chính, Ban Kế hoạch lao động, Tòa án nhân dân. Riêng cơ quan tỉnh đội đã được hình thành từ nước và được củng cố, kiện toàn.
Bộ máy Văn phòng của UBNDCM tỉnh do đồng chí Nguyễn Đằng làm Chánh Văn phòng cũng đã được hình thành và kịp thời thực hiện nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho Chính quyền tỉnh động viên, tổ chức quân dân tiếp tục chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ quê hương giải phóng, tổ chức đời sống cho nhân dân, phòng tránh và sẵn sàng tiếp tục đánh địch, củng cố và phát triển tổ chức lực lượng cách mạng trên địa bàn.
3. Hoạt động tham mưu, phục vụ của Văn phòng UBNDCM tỉnh.
Cùng với sự hình thành của UBNDCM tỉnh và các cơ quan chuyên môn, trong giai đoạn này, Văn phòng UBNDCM tỉnh đã tích cực tham mưu cho Tỉnh ủy và UBNDCM tỉnh thiết lập hệ thống UBNDCM từ cấp huyện, thị xã đến xã phường đến chính quyền thôn dưới nhiều hình thức phù hợp với điều kiện tình hình, trong đó UBNDCM huyện được hình thành từ 7 - 11 thành viên, UBNDCM xã từ 5 - 7 thành viên. Trong giai đoạn đầu này, mặc dù lực lượng cán bộ còn rất mỏng nhưng tập thể Văn phòng UBNDCM tỉnh vẫn theo dõi tình hình sản xuất, chiến đấu và đời sống của nhân dân để kịp thời báo cáo với Lãnh đạo tỉnh và Ban đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời ở Khu Trị - Thiên - Huế. Theo báo cáo kết quả ngày 05/12/1972 của UBNDCM tỉnh: "Nhìn chung Chính quyền Cách mạng các cấp đều bảo đảm tính chất dân tộc dân chủ rộng rãi, đã gây thanh thế cho cách mạng và được quần chúng tín nhiệm làm nhiệm vụ chính trị xây dựng cũng cố vùng giải phóng, đánh địch phản kích thắng lợi, kiên trì đẩy mạnh sự nghiệp giải phóng Miền Nam mau đến thắng lợi hoàn toàn".
Xác định được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền về vai trò, vị trí và ý nghĩa của Chính quyền nhân dân cách mạng, mặc dù trong bối cảnh đang gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn bộn bề, Văn phòng UBNDCM tỉnh đã phối hợp xây dựng các chương trình truyền thông, tổ chức các chuyến đi thăm cơ sở, thăm nhân dân vùng giải phóng cho lãnh đạo UBNDCM tỉnh như đồng chí Nguyễn Sanh, Phó chủ tịch UBNDCM tỉnh đi thăm đồng bào khu vực Triệu Phong, Hải Lăng; đồng chí Nguyễn Tập, Ủy viên Ủy ban đi thăm khu vực sơ tán của và con huyện Triệu Phong, Hải Lăng; đồng chí Phan Văn Khánh, Ủy viên UBNDCM tỉnh, Ủy viên Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Trị đến thăm cơ sở và đồng bào thuộc khu vực huyện Gio Linh, Cam Lộ. Các chuyến công tác cơ sở này đã góp phần thắt chặt mối liên hệ giữa cấp tỉnh với cấp huyện, cấp cơ sở, gây dựng niềm tin vững chắc về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đồng bào các nơi có lãnh đạo UBNDCM tỉnh đến thăm đều rất phấn khởi, khen ngợi và tin tưởng Chính quyền cách mạng thật sự chăm lo đến mọi người dân từ miếng cơm manh áo, giáo dục, y tế, sản xuất, giống cây trồng vật nuôi, phân bón, nơi ở, nông cụ, sức kéo.
Ngày 10/6/1972, Tỉnh uỷ và UBNDCM tỉnh đã họp, nhận định tình hình và xác định nhiệm vụ mới của tỉnh: "Thất bại của địch ở Quảng Trị là một thất bại có ý nghĩa chiến lược, do đó Mỹ - nguỵ rất cay cú. Chúng sẽ tìm hết mọi mưu mô, thủ đoạn để phản kích, nhằm phá hoại mọi thành quả mà ta đạt được, thậm chí chúng có thể đánh chiếm lại Quảng Trị”[1]. Trên cơ sở đó, UBMTDTGP tỉnh và chính quyền tỉnh chủ trương tổ chức, động viên toàn dân kiên quyết đánh địch, bảo vệ dân, đồng thời chủ trương tổ chức sơ tán phòng tránh số dân nơi có thể có nhiều bom đạn ác liệt. Lãnh đạo tỉnh cho sơ tán một số dân ở 2 huyện phía Nam ra phía Bắc với điều kiện bất cứ tình huống nào cũng phải bảo đảm tính mạng tài sản của dân, trước hết là bảo đảm con người bằng cách tổ chức chỉ đạo sơ tán dãn dân có kế hoạch, tập trung một số cán bộ, phương tiện giao thông, bộ đội địa phương và du kích hướng dẫn dân đến nơi địa điểm quy định. Chính vì vậy, mặc dù phi pháo địch bắn phá rất ác liệt nhưng tỷ lệ thương vong xảy ra rất thấp.
Huyện Triệu Hải chuyển  ra Gio Cam hơn 100 con trâu bò, gần 50 tấn thóc giống và ngô, lạc, đậu để tạo điều kiện cho dân bắt tay vào sản xuất ở vùng sơ tán. Trong một thời gian rất ngắn, tỉnh đã tổ chức sơ tán hơn 6 vạn dân và một số phương tiện, dụng cụ, nông cụ sản xuất. Đến nơi sơ tán, trước hết là dân bắt tay đào hầm hào phòng tránh phi pháo, xây dựng lán trại để ổn định nơi ăn ở, dân địa phương tại chỗ hết sức thông cảm thương yêu đùm bọc người đến sơ tán. Tình đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, nhường cơm xẻ áo, chia nhà nhường lán trại hầm hào, tạo điều kiện bảo đảm tính mạng, đời sống, vừa tiếp tục sản xuất, chiến đấu xây dựng quê hương, quyết tâm đánh tan giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước.
Tổ chức sản xuất phục vụ đời sống và các hoạt động khác của nhân dân vùng giải phóng (tại chỗ và dân sơ tán đến) được chính quyền tỉnh và các cấp, các ngành quan tâm, chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện. Tuy nhiên, tại một vùng chiến địa ác liệt, cảnh tàn phá của chiến tranh hủy diệt, do bom đạn Mỹ, hóa chất độc Mỹ gây nên, đã khiến vùng đất tỉnh Quảng Trị trở nên hoang tàn, trơ trụi. Sau chiến tranh, toàn vùng chỉ còn lại 3 thôn, làng nguyên vẹn, không một tường nhà nào không có vết đạn bom của địch, mồ mả bị bom cày, đạn xới, cây cối xác xơ, trên 80% trâu, bò, lợn bị chết. Có những vùng đất đai bỏ hoang hóa như vùng Cùa, vùng Bắc Gio Linh vì chúng bắt dân tập trung vào ấp chiến lược, trại tập trung. Công tác khai hoang phục hóa, tháo gỡ bom mìn, vô hiệu hóa chất nổ… phục vụ cho đời sống và sản xuất là một công việc vô cùng nặng nề, khó khăn.
Mặc dù lúc đầu đời sống của dân bị đảo lộn do sơ tán, dãn dân để tránh bom đạn nhưng nhờ sự chỉ đạo và giúp đỡ kịp thời của chính quyền các cấp, các ngành chuyên môn nên tất cả các địa bàn có dân ở đều có sản xuất rau màu, lương thực, thực phẩm, chăn nuôi gà, vịt, lợn. Theo báo cáo của UBNDCM tỉnh, năm 1972, Gio Linh và Cam Lộ đã đạt được 1.210 mẫu lúa vụ 8, vụ 10, trong đó tiêu biểu là xã Gio Mỹ (Gio Linh) sản xuất vụ 10 được 300 mẫu, thu hoạch được 200 tấn thóc. Đến cuối tháng 10/1972, nông dân các huyện Hải Lăng, Cam Lộ, Triệu Phong, Gio Linh sản xuất được 792,5 mẫu hoa màu vụ Thu. Hai huyện Hướng Hóa Nam và Bắc: sản xuất lúa mùa và "3 trăng" được 10.955 thúng giống, ngô 26.103 lon giống, sắn 18.825.000 gốc. Những con số kết quả sản xuất vụ 8, vụ 10, vụ Thu năm 1972, đã nói lên quyết tâm, nỗ lực của nhân dân, trước hết là nông dân, ngư dân vùng giải phóng Quảng Trị, vượt qua mưa bom, bão đạn "tái chiếm Quảng Trị" của Mỹ ngụy để sản xuất, bám ruộng đồng, sông biển để sản xuất, nâng cao đời sống và phục vụ nhiệm vụ chiến lược lâu dài.
Xác định giải quyết vấn đề chiến thương, sức khỏe cho quần chúng là vấn đề trọng tâm mà Trung ương thường xuyên đôn đốc, Văn phòng UBNDCM tỉnh đã cố gắng xây dựng kế hoạch thiết lập hệ thống y tế từ tỉnh xuống huyện, xã, thôn. Các trạm xá huyện đã tổ chức hoạt động đều và bảo đảm cứu chữa tương đối tốt cho dân do bom đạn địch gây nên. Hội nghị toàn thể UBNDCM tỉnh ngày 05/12/1972 đánh giá: "Nhìn chung, vấn đề sức khỏe của quần chúng, vấn đề cứu chữa thương tật, ốm đau đều được chính quyền và chuyên môn y tế quan tâm nên sức khỏe của quần chúng được bảo đảm, quần chúng phấn khởi tham gia sản xuất và chiến đấu, phục vụ chiến đấu kịp thời khi có lệnh điều động”.
Tuy bom đạn chiến tranh ác liệt nhưng vùng giải phóng tổ chức lán trại, hầm hào cho các lớp học vẫn cứ học, giáo viên vẫn dạy khi không có phi pháo. Kết quả theo báo cáo của Ủy ban, Văn phòng UBNDCM tỉnh tổng hợp được (đến 02/12/1972) như sau: các huyện Cam Lộ, Gio Linh, Hướng Hóa, Triệu Phong đào tạo được 672 giáo viên và dạy cho 5.000 học viên bình dân, trong đó có 3 lớp cho du kích, cán bộ tập trung được 120 học viên bình dân. Có 1.271 học viên phổ thông, tuy kết quả con số quá ít so với dân số mù chữ, nhưng do nguyên nhân chiến tranh bom đạn quá ác liệt, hầm lán còn thiếu, học viên thiếu an tâm để học, giấy bút sách giáo khoa quá thiếu, đồ dùng dạy học thiếu thốn. Trước tình hình đó, Ủy ban, Văn phòng UBNDCM các cấp và Ty Giáo dục đã từng bước nghiên cứu, khắc phục.
Các thành quả ban đầu trong một khoảng thời gian ngắn từ khi giải phóng đến khi thành lập chính quyền đạt được nhờ các yếu tố sau đây:
1. Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của UBMTDTGP Trung ương và Chính phủ CMLT, sự trực tiếp chỉ đạo của Ban đại diện Chính phủ CMLT ở khu Trị - Thiên - Huế và sự chi viện trực tiếp về vật chất và tinh thần của Miền Bắc XHCN.
2. UBNDCM tỉnh và các Ty, Ban, ngành chuyên môn cùng với UBMTDTGP tỉnh đồng tâm nhất trí đường lối chủ trương và quyết tâm lãnh đạo thực hiện.
3. Quân, dân toàn tỉnh và chủ lực miền có truyền thống phối hợp chiến đấu và công tác phục vụ chiến đấu, đồng tâm hợp lực vì sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ quốc.
4. Các thành viên trong UBNDCM tỉnh và chính quyền các huyện, xã đoàn kết nhất trí, ra sức xây dựng chính quyền vững mạnh. Các thành viên của các cấp chính quyền đều đoàn kết cởi mở, chân tình, mỗi người trên cương vị của mình đều quán triệt phương châm: do dân mà phục vụ, vì dân mà chiến đấu"[2].
Hội nghị cũng xác định nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm của toàn Đảng bộ, quân và dân trong toàn tỉnh lúc này là "Động viên và phát huy cao độ truyền thống đấu tranh, tinh thần tự lực tự cường, nỗ lực phi thường đưa phong trào thi đua yêu nước của quân và dân trong tỉnh biến thành cao trào cách mạng, kiên quyết chống và đánh địch phản kích tái chiếm, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng, thực hiện kế hoạch sơ tán bảo vệ tính mạng và tài sản nhân dân, nhằm giữ vững và củng cố vùng giải phóng, góp phần đắc lực vào sự nghiệp đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng Miền Nam, bảo vệ Miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nước".
Trên cơ sở khảo sát thực địa, ngày 05/12/1972, UBNDCM tỉnh đã nhận định và đánh giá về tình hình: "Hiện nay tuy địch còn chiếm đóng một số thôn ấp ở Triệu Hải nhưng lực lượng kìm kẹp của chúng đã bị ta quét sạch, số còn lại sau khi nghe "10 chính sách vùng giải phóng" đều ra khai báo, thú tội, được nhân dân đối xử tử tế, khoan hồng và thông cảm bỏ qua việc cũ, cùng nhau đoàn kết đánh Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện nghiêm chỉnh chính sách hòa hợp dân tộc của Mặt trận dân tộc giải phóng và Chính phủ Cách mạng đề ra". Bên cạnh đó, về mặt tổ chức chính quyền và bộ máy giúp việc, UBNDCM tỉnh cũng đã đánh giá sơ bộ như sau: "Chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ chính trị, chuyên môn biên chế từ tỉnh, huyện lên đến 1.000 người. Mặc dù chính quyền cách mạng mới thành lập nhưng phần lớn là cán bộ đã kinh qua xây dựng chính quyền từ 1945 đến nay, nên UBNDCM các cấp, các ngành chuyên môn đều có một sức sống mãnh liệt đã gây được thanh thế và uy tín trong quảng đại quần chúng. Mặc dù địch bắn phá ác liệt, nhưng UBNDCM các cấp đều công khai hoạt động, quyết tâm bám vào lòng dân, lòng đất để ăn ở và làm việc, được quần chúng tin yêu và mến phục. UBNDCM các cấp đều liên hệ chặt chẽ và chịu sự lãnh đạo của UBMTDTGP trên những đường lối chính sách cơ bản về chống Mỹ, cứu nước, xây dựng chế độ dân tộc, dân chủ ở Miền Nam. Chúng ta cần tự hào vai trò chính quyền cách mạng xã, thôn từ chỗ mỗi xã có 3 đến 5 cán bộ, 5 đến 7 du kích, một hai cơ sở hoạt động nay tất cả xã, thôn đều có UBNDCM và Ban chính quyền thôn. Ngoài ra ở các thôn, xã đều có một lực lượng du kích, an ninh và cán bộ tổ chức đoàn thể quần chúng, như thanh niên, phụ nữ, phụ lão, bà mẹ, thiếu nhi,… đông đảo tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, xây dựng chính quyền và bảo vệ chính quyền cách mạng. Do đó, bộ mặt chính trị nông thôn lúc này khác hẳn, tạo ra cho quần chúng một khí thế mới, sức mạnh mới và thắng lợi mới hoàn toàn thuộc về quần chúng nhân dân. Chúng ta tự hào về truyền thống đoàn kết của toàn dân".
Với mục tiêu tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình, nhiệm vụ mới sau giải phóng, UBNDCM tỉnh đã phát động phong trào thi đua và giao cho Văn phòng UBNDCM tỉnh cùng với các ngành, các cấp đôn đốc, theo dõi cụ thể các hoạt động hưởng ứng lập thành tích để xét khen thưởng trong dịp kỷ niệm lần thứ 12 ngày thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng (20/12/1960 - 20/12/1972),  

Lãnh đạo UBNDCM tỉnh họp tại Gio Linh 1972

lãnh đạo nhân dân tham gia chống Mỹ cứu nước, thực hiện 10 chính sách của Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh đã ban hành, xây dựng lực lượng vũ trang, an ninh và du kích, ổn định đời sống, bảo đảm tính mạng tài sản, phân phối hàng chi viện cứu tế cho nhân dân, giải quyết chiến thương, bệnh tật ốm đau cho quần chúng, chiến sỹ và cán bộ; đẩy mạnh sản xuất tăng gia và các phong trào quần chúng. Trong đó, Văn phòng UBNDCM và các đơn vị đã tập trung động viên toàn quân, toàn dân hưởng ứng 2 bản tuyên bố quan trọng: Tuyên bố ngày 26/10/1972 của Chính phủ VNDCCH và Tuyên bố ngày 28/10/1972 của Chính phủ CMLTCHMN Việt Nam về tình hình đàm phán hòa bình để đòi đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Về một số mặt hiệu quả công tác, Văn phòng UBNDCM đã đề xuất, tham mưu UBNDCM tỉnh uốn nắn, khắc phục nhược điểm ban đầu của Chính quyền cách mạng ngày đầu mới hình thành:
- Về chỉ đạo lúc đầu chưa thật chặt, thiếu biện pháp cụ thể cho một số Ty, ngành, huyện… trong việc quán triệt đặc điểm tình hình, chủ trương chính sách của cách mạng nên việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của trên còn lúng túng, kỷ luật chưa thật chặt chẽ, nguyên tắc chế độ tài chính có nơi chưa nắm vững. 

Chính quyền, quân và dân Quảng Trị tích cực tham gia kháng chiến

Lãnh đạo UBNDCM tỉnh làm việc tại Lạc Tân - Gio Linh, năm 1972

- Về lề lối làm việc nói chung chưa khoa học, nhất là ở cơ sở, việc phối hợp chưa nhịp nhàng.- Vấn đề trật tự trị an có nơi chưa bảo đảm, việc cấp giấy tờ đi lại cho cán bộ chiến sỹ và quần chúng tiến hành còn chậm.
- Một số chế độ chính sách cụ thể chưa nghiên cứu giải quyết kịp thời.
- Đời sống của quần chúng còn nhiều khó khăn.
 Những tồn tại nhược điểm nêu trên được Hội nghị toàn thể UBNDCM tỉnh ngày 05/12/1972 nhận định: Thành tích vẫn là cơ bản và chủ yếu trong những tháng qua là việc xây dựng củng cố được chính quyền cách mạng các cấp hoạt động đúng hướng, tồn tại nhược điểm đó cần được khắc phục sớm, kết quả nhất định sẽ tốt hơn.
Chủ trương, chiến lược của Trung ương và kế hoạch của Đảng ủy, UBNDCM tỉnh đã làm trào dâng ý chí quyết tâm, niềm tin tưởng, phấn khởi trong Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị. Mùa hè đỏ lửa năm 1972, quân ta mở cuộc tiến công chiến lược giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Không cam chịu mất một địa bàn trọng yếu, Mỹ - ngụy quyết tâm tái chiếm Quảng Trị bằng việc mở cuộc hành quân "Lam Sơn 72" quy mô lớn chưa từng có, nhằm mục đích chiếm lại thị xã Quảng Trị và các huyện phía Nam sông Thạch Hãn trước ngày 10/7/1972, sau đó sẽ vượt sông tái chiếm nốt các huyện phía Bắc, nhằm thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, hòng xoay chuyển tình thế có lợi cho chúng trên bàn đàm phán Hội nghị Paris. Và như thế, mặt trận Quảng Trị, đặc biệt là thị xã và Thành cổ Quảng Trị trở thành một trong những mục tiêu trọng yếu nhất, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch.
Cuộc chiến đấu chống tái chiếm Thành Cổ Quảng Trị vô cùng ác liệt, kéo dài 81 ngày đêm “Từ một thị xã nhỏ, ít ai biết đến Thành Cổ, thị xã Quảng Trị đã trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của nhân dân cả nước và thế giới, bởi tính chất hung bạo của kẻ thù và tinh thần anh dũng vô song của đồng bào và chiến sỹ Việt Nam ta. Địch đã huy động vào đây những sư đoàn thiện chiến nhất, những đơn vị binh chủng được trang bị tối tân nhất và được Mỹ cung cấp chi viện tối đa về hoả lực, khối lượng bom đạn tương đương 7 quả bom nguyên tử ném xuống Hirôshima - Nhật Bản năm 1945”.
Với thắng lợi trên chiến trường Quảng Trị năm 1972, lần đầu tiên trên chiến trường Miền Nam, quân và dân ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, giải phóng phần lớn tỉnh Quảng Trị và kiên cường đánh bại các cuộc phản công chiến lược của địch (tiêu biểu nhất là 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị), cơ bản giữ được vùng giải phóng. Tỉnh Quảng Trị - địa đầu của Miền Nam, là cầu nối giữa tiền tuyến lớn Miền Nam với hậu phương lớn Miền Bắc sau 18 năm dưới ách kìm kẹp của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã được giải phóng gần như hoàn toàn, đời sống nhân dân được ổn định, thực sự tạo ra lợi thế mới cho cách mạng Miền Nam. Huyện Cam Lộ, thị xã Đông Hà của Quảng Trị trở thành nơi đặt trụ sở của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa Miền Nam Việt Nam, nơi đón tiếp các phái đoàn quốc tế, trong đó có Chủ tịch Fidel Castro của Cuba khi cuộc chiến đấu đánh địch lấn chiếm của quân và dân ta trên chiến trường Quảng Trị đang diễn ra quyết liệt[1].
Chế độ ngụy quyền Sài Gòn luôn luôn coi Quảng Trị phần Nam vĩ tuyến 17 là đơn vị được quân sự hoá rắn chắc nhất theo kiểu Hoa Kỳ, lá chắn thép, hàng rào điện tử Mc. Namara, song đã bị quân dân ta đánh phá tan tành và Quảng Trị được giải phóng, mặc dù sau đó địch điên cuồng phản kích chiếm lại nhưng không thực hiện nổi. Vùng giải phóng Quảng Trị vẫn cứ tiếp tục được mở rộng, nối liền Miền Bắc XHCN và được xây dựng thành hậu phương trực tiếp của cách mạng Miền Nam.
Ngày 28/01/1973, Hiệp định Paris có hiệu lực và Quảng Trị phía Nam giới tuyến bị hình thành hai vùng:
Vùng tạm thời bị địch chiếm đóng: Khoảng 15% diện tích đất đai, với khoảng hơn 17 vạn dân, gồm địa bàn huyện Hải Lăng, thị xã Quảng Trị và 5 xã của huyện Triệu Phong. Trải qua các đợt Mỹ Nguỵ đánh phá trong năm 1972, toàn bộ làng mạc, phố xá hoàn toàn bị đổ nát, xóm làng xơ xác, không còn nhà cửa, dân chúng, ruộng vườn hoang hoá. Tất cả, đi đâu cũng thấy xe tăng và súng đạn, gồm 40 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, thiết giáp thuộc 2 sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến, 50 đại đội bảo an của tiểu khu quân sự Quảng Trị và 4 chi khu của 4 huyện kéo về chốt giữ nơi đây. Toàn bộ nhân dân bị dồn ép vào các tỉnh, huyện phía Nam. Mãi đến tháng 3/1973, mới có một bộ phận nhân dân Hải Lăng, Triệu Phong trở về.
Đến đầu năm 1975, việc ăn ở của nhân dân vùng bị chiếm mới ổn định ban đầu. Nói chung, địch cưỡng ép dân vào ở các khu tập trung, riêng những gia đình quê ở vùng giải phóng Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá thì địch tập trung vào trong các khu dọc theo quốc lộ 1 từ Hải Phú, quận Mai Lĩnh, đến cây số 23 huyện Phong Điền hoặc khu tập trung ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Riêng một bộ phận khác thì di tản vào các tỉnh phía Nam. Những gia đình thuộc 5 xã của huyện Triệu Phong (Triệu Lăng, Triệu Trung, Triệu Sơn, Triệu Vân, Triệu Tài) thì địch buộc phải sống theo các khu tập trung dọc theo đường 68 từ Diên Sanh về cảng Mỹ Thuỷ. Người dân thị xã Quảng Trị bị chúng dồn về bãi cát Diên Sanh (Hải Thọ, huyện Hải Lăng), nơi xây dựng tiểu khu mới (Tỉnh lỵ) của Quảng Trị. Đồng bào các vạn đò An Thành, Trọng Đức, Cư Xuân, Gia Độ, Đông Hà bị dồn tập trung về trên một đoạn của sông Mỹ Chánh.
Đồng bào phải ăn ở chật chội, chen chúc, không có việc làm, cuộc sống vật chất đói khổ, thiếu thốn, đời sống tinh thần bị kìm kẹp khắc nghiệt, thường xuyên bị tra hỏi, đe doạ, theo dõi bắt bớ. Thanh niên mới lớn chúng bắt đi lính, chúng tổ chức “Liên gia”, “Tổ hợp”, “Phòng vệ xung kích”, “Thiếu nhi chống cộng”... để kiểm soát. Nhưng với truyền thống cách mạng bất khuất, đồng bào đi tìm cán bộ khâu nối liên lạc, nhất là sau hội nghị của “Tổ chức phía trước”, tỉnh thành lập Ban Cán sự chỉ đạo phía trước có đồng chí Nguyễn Thư, Ủy viên Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó Chủ tịch UBNDCM tỉnh tham gia, lực lượng cán bộ hoạt động phía trước (Vùng tạm bị chiếm) được tăng cường, công tác triển khai hoạt động chống phá âm mưu bình định của địch, xây dựng lực lượng cách mạng, gây được lòng tin trong quần chúng, thế và lực được phát triển tốt, móc nối tổ chức được với cơ sở ở 23/58 thôn, 14/19 xã (Theo Báo cáo của lực lượng phía trước).

[1] Tỉnh ủy Quảng Trị - Bộ Quốc phòng: 40 năm giải phóng tỉnh Quảng Trị và chiến đấu bảo vệ Thành Cổ (1972 - 2012), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, trang 29.

Nhân dân vui mừng đến thăm UBNDCM tỉnh nhân dịp Văn phòng làm việc của UBNDCM tỉnh chuyển về thị xã Đông Hà sau ngày giải phóng


“Tuy lực lượng địch còn đông, đóng dày, âm mưu xảo quyệt, nhưng mọi mặt của chúng đều không ổn định. Bọn nguỵ quân, nguỵ quyền đang sống trong lo sợ, tư tưởng thất bại 1972 còn ám ảnh, đeo đuổi chúng. Nội bộ mâu thuẩn trên dưới, đảng phái tranh giành, kinh tế đang gặp khó khăn. Địch lại ở trong thế bị bao vây nhiều mặt của vùng giải phóng, binh lính địch chán ngán, không muốn chiến tranh, chống lệnh đi càn... Do đó, tuy vùng bị chiếm ở Quảng Trị địch có quân đông, đóng dày, nhiều âm mưu thủ đoạn xảo quyệt, thâm độc nhưng có nhiều chổ sơ hở và khó khăn đang dồn dập đến với chúng. Nhất là nhân dân không tin ở lời nói lừa gạt của chúng, không hợp tác với chúng"[1].
Từ ngày đầu thành lập và suốt cả thời gian Văn phòng - Cơ quan làm việc của UBNDCM tỉnh tại các địa điểm dã chiến ở huyện Gio Linh, cán bộ, nhân viên Văn phòng không chỉ tự lo cho mình lán trại hầm hào, ăn ở phòng tránh bom đạn và với tinh thần sẵn sàng chiến đấu khi có tình huống bị địch tập kích mà còn bảo vệ sức khỏe, lo chổ ăn, ở và điều kiện làm việc tiếp khách cho các đồng chí Lãnh đạo Ủy ban như hầm hào chống phi pháo địch, sẵn sàng bảo vệ di chuyển khi có trực thăng địch đổ bộ tập kích. Văn phòng vừa làm việc hết mình vừa sẵn sàng đánh địch.
Kể từ sau hiệp định Paris có hiệu lực(28/01/1973), Văn phòng đóng ở thôn Đông Hà và sau chuyển vào trung tâm thị xã (tại cơ sở làm việc của UBND thị xã Đông Hà trước năm 2000) là không phải đào hầm hào và không còn những đêm thay phiên canh gác.
Lúc này Văn phòng Uỷ ban được tăng cường, bộ phận thư ký đoàn theo dõi khối công tác chính đủ sức giúp Uỷ ban tỉnh tổng hợp tình hình, đề xuất, chỉ đạo công tác, quản lý nhiệm vụ theo chức năng của Chính quyền cấp tỉnh, số người ở bộ phận hậu cần không những đủ sức phục vụ Chính quyền cấp tỉnh như các tỉnh bạn mà còn phải lo phục vụ, góp sức với T72 để tiếp nhận phục vụ cán bộ do địch bắt trao trả và tiếp khách của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam tại khu Chính phủ ở thị trấn Cam Lộ.
Thực hiện Nghị quyết tháng 4/1973 và các Nghị quyết tiếp theo của Tỉnh uỷ, Ban Cán sự chỉ đạo trực tiếp phía trước được thành lập, các huyện có dân ở phía trước đều có bộ phận theo dõi chăm lo phù hợp hơn, mỗi xã phía trước có biên chế một Tổ công tác, các xã có liên quan liền kề nhau thành lập một Đội công tác chịu trách nhiệm và đều trực thuộc Ban Cán sự chỉ đạo phía trước của tỉnh. Nhờ vậy, mà nội dung công tác phía trước được đẩy mạnh như: phong trào đấu tranh của quần chúng ở vùng địch kiểm soát ở nông thôn và thành thị, nhằm phá các kế hoạch bình định của địch, từng bước phá lỏng, phá rã ách kìm kẹp của chúng, giành và giữ dân, giành quyền làm chủ ngày càng được khá dần lên.
Vùng giải phóng (phía sau) với 13 vạn dân, 85% diện tích, có cả rừng núi, đồng bằng, đô thị, bờ biển hải cảng, có 25.000 ha ruộng đất canh tác. Vùng giải phóng Quảng Trị nối liền với căn cứ địa cách mạng tỉnh Thừa - Thiên - Huế và vùng giải phóng Hạ Lào rộng lớn, đặc biệt là tiếp giáp với Miền Bắc XHCN. Vùng giải phóng Quảng Trị được hoàn chỉnh nhất, có nhiều điều kiện thuận lợi, được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam chọn đặt thủ phủ và trở thành vị trí chiến lược quan trọng cả về Chính trị, Quân sự, Ngoại giao, Kinh tế - Xã hội. Do đó, mọi hoạt động ở đây đều có liên quan ảnh hưởng đến tình hình toàn Miền Nam, cả nước và có tác động đến thế giới.
Căn cứ vị trí, đặc điểm tình hình mới và thực hiện lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng, của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam và Chính phủ sau khi Hiệp định Paris được ký kết; Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị quyết tâm ra sức thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, đó là:
- Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh cách mạng trực tiếp trong vùng còn tạm thời bị địch chiếm đóng với kết quả cao.
- Quyết tâm xây dựng vùng giải phóng và căn cứ địa miền núi vững mạnh về mọi mặt.
Tuỳ tình hình cụ thể của mỗi thời kỳ mà vị trí và yêu cầu của 2 nhiệm vụ đó được xác định cụ thể hơn.
Đã qua gần 2 năm sau ngày Hiệp định Paris có hiệu lực (28/01/1973 đến 30/10/1974), Văn phòng UBNDCM tỉnh đã tổng hợp, đánh giá tình hình, chuẩn bị báo cáo tổng kết và lo hậu cần để UBNDCM tỉnh mở hội nghị “Kiểm điểm tình hình thực hiện nhiệm vụ 1973 - 1974 và thông qua dự án kế hoạch nhiệm vụ 1975”.
Thời gian này, vùng phía sau (vùng giải phóng) có nhiều nhiệm vụ quan trọng, Văn phòng trực tiếp giúp Uỷ ban chỉ đạo thực hiện:
- Tổ chức đón tiếp anh chị em chiến thắng trở về (4.700 anh chị em đối phương trao trả tại bến sông Thạch Hãn).
- Đón nhận và ổn định chỗ ở cho đồng bào sơ tán ở các huyện phía Bắc và bà con di tản vào các địa phương phía Nam trở về quê cũ.
- Tổ chức lực lượng tháo gỡ bom mìn, khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích sản xuất, đào đắp sửa chữa kênh mương thuỷ lợi, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lương thực; khôi phục sản xuất nghề muối, tiểu thủ công nghiệp, đánh cá,... chăn nuôi gia súc, gia cầm.
- Tổ chức tiếp nhận viện trợ của Trung ương, của tỉnh bạn, của bạn bè trong nước và Quốc tế.
- Tổ chức chăm lo đời sống và sức khoẻ cho nhân dân mới trở về.
- Tổ chức rà phá bom mìn, cất bốc quy tụ mồ mã, hài cốt liệt sỹ, chăm sóc gia đình có công với cách mạng.
- Tổ chức tiếp nhận sắp xếp bố trí cán bộ chuyên môn kỷ thuật Miền Bắc chi viện, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nhằm bố trí thích hợp cho tương lai. Củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở.
- Tổ chức hội nghị sản xuất Đông Xuân, Hè Thu 1973 - 1974 và Đông Xuân 1974 - 1975.
- Tổ chức hội nghị thi đua toàn tỉnh ngày 23/11/1973 (có hơn 400 đại biểu dự).
- Tổ chức kỷ niệm các ngày Lễ lớn 01/5, 02/9, 20/12. Đặc biệt là ngày lễ ra mắt Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam 06/6/1973. Và lễ đón tiếp các vị Nguyên thủ Quốc gia, các vị khách Quốc tế các vị đại sứ đến trình Quốc thư, Lãnh đạo Chính phủ đến thăm vùng giải phóng.
Kết quả tổng hợp của Văn phòng của UBNDCM tỉnh tại Hội nghị 30, 31/10/1974:
Vùng giải phóng (phía sau) đang trên đà thắng lợi, đã và đang xây dựng quyết tâm cao, nhằm giải quyết hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá xã hội với tốc độ nhanh và vững chắc để làm tròn nhiệm vụ vị trí chính trị của mình là một tỉnh ở Miền Nam được giải phóng đầu tiên tương đối hoàn chỉnh. “Về sản xuất nông nghiệp, lương thực: Với quyết tâm cao 1974 căn bản khôi phục 25.000 ha diện tích canh tác mà phần lớn bỏ hoang hoá nhiều năm nay.
“Trong hoàn cảnh hậu quả chiến tranh tàn khốc do đế quốc Mỹ gây ra chưa được khắc phục, cơ sở vật chất kỹ thuật nông nghiệp còn thiếu, thời tiết lại diễn biến phức tạp khó khăn, lao động yếu và thiếu, tổ chức sản xuất tập thể và đổi công còn mới mẻ, bộ máy Lãnh đạo chưa được kiện toàn, chính sách cụ thể chưa được xây dựng.....Nhưng với cố gắng cao, vụ Đông Xuân gieo trồng được 13.000 ha lúa, màu, thu hoạch được 15.658 tấn lương thực, năng xuất bình quân 1386 kg/ha, bình quân nhân khẩu nông nghiệp đạt 160 kg thóc/ vụ Đông Xuân 1973 - 1974 là 1 vụ sản xuất thắng lợi toàn diện, nhưng chưa thật sự vững chắc. Tuy vậy, thắng lợi này đã mở ra khả năng đưa nông nghiệp sản xuất lương thực tiến lên những bước tiếp theo. Vụ 8 năm này đạt khá, sản xuất đạt 69% diện tích dự kiến, nhưng lúa tốt, trúng mùa. Triệu Phong năng suất 4 tấn/ha, Hải Lăng 2 tấn/ha, Cam Lộ, Gio Linh 1 tấn/ha, bình quân toàn tỉnh 1,5 tấn/ha. Sản lượng đạt 3.166 tấn. Tổng diện tích gieo trồng 1974 đạt 28.720 ha. Đã huy động tập trung 167.239 ngày công làm thuỷ lợi, đào đắp 174.864 m3 đất đá, sửa chữa nạo vét được 224 km kênh mương. Đập Việt Yên, hói Lệ Xuyên, đập Đông Hà, trạm bơm Lâm Lang… đã được đào đắp, xây dựng kịp thời phục vụ sản xuất. Vụ Đông Xuân 1974 - 1975 hứa hẹn năng suất sẽ đạt cao hơn Đông Xuân 1973 - 1974.
Khai thác tre, gỗ, trồng rừng, nghề cá, sản xuất muối, các ngành nghề thủ công: đan lát, chiếu cói, chum vại, bún bánh... bước đầu được khôi phục, sản xuất có kết quả, tạo được công việc làm có thu nhập, có tiêu dùng.
Các hoạt động giao thông vận tải, bưu điện không những phục vụ đắc lực cho khôi phục kinh tế, phát triển Văn hoá - Xã hội tất cả các vùng đồng bằng, trung du và miền núi mà còn phục vụ kịp thời cho chiến đấu phía trước, phục vụ chính trị, ngoại giao cũng rất lớn. Chỉ trong 9 tháng của năm 1974: Vận tải được 49.000 tấn hàng hoá, 4.912.000 người khách/km, duy tu bảo dưỡng được 550m cầu, làm mới 36m cầu, bắc cầu phao Mỹ Lộc, cống Mỹ Hoà, phà Đại Lộc... nạo vét sông Cánh Hòm được 13.634 m3 và sử dụng 118 ca hút 10.680 m3. Cảng Đông Hà có 1.577 lượt chiếc tàu cập bến, bốc xếp được 87.538 tấn hàng hoá, còn đón được tàu 400 tấn cặp bến Đông Hà, mang hàng hóa, tình hữu nghị của nhân dân Trung Quốc đến với tỉnh. Mạng lưới bưu điện thông suốt từ Đông Hà với các tỉnh Miền Bắc và khu Trị Thiên - Huế, về 4 Huyện nội tỉnh, tiếp nối tận các xã, chốt phía trước phục vụ lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời cả ngày lẫn đêm.
 Lưu thông phân phối hàng hoá, chợ búa, quản lý tiền tệ, nguồn vốn và tiếp nhận hàng hoá viện trợ bảo đảm tốt, góp phần ổn định giá cả, cải thiện đời sống cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, phục vụ sản xuất chiến đấu. Công tác văn hoá, xã hội được chú ý phát triển tốt. Công tác tiêm chủng phòng bệnh đạt 75 - 82%, tập trung dập dịch lỵ, làm tốt ở Triệu Phong, Hải Lăng; ỉa chảy sau trận lụt ngày 15/8 ở các huyện đồng bằng tốt, kịp thời bảo đảm sức khoẻ cho nhân dân trong dịp làm mùa. Công tác vận động xây dựng hố xí 2 ngăn, hố tiểu, hố rác, nhà tắm, giếng nước đạt kết quả tốt. Phòng chống sốt rét ở miền núi bằng việc phun thuốc, uống phòng kết quả tốt, giảm được 85% so với 1973. Sức khoẻ của nhân dân có tăng tiến, tỉ lệ tử vong sơ sinh giảm, nhưng ở miền núi còn cao bởi tỉ lệ tục sinh nở của bà mẹ và chăm sóc trẻ sơ sinh còn sơ sài thiếu khoa học tối thiểu, cần được tuyên truyền giác ngộ nhiều hơn, cải tiến tập quán sinh nở của bà mẹ. Giáo dục đầu tiên trong tỉnh sau ngày giải phóng, hoàn thành một năm học (1973 - 1974) hoàn chỉnh rất tốt, đáng tự hào. Có 29.738 học sinh. Riêng miền núi có 30 trường, 56 lớp và 2.419 học sinh. Nhiều năm sống dưới chế độ Mỹ Nguỵ bị thất học nhiều, nay giải phóng rồi tự do học hành, họ cho con em đi học và tự mình cũng đi học để thoát nạn mù chữ. Có 11.927 học viên bổ túc văn hoá ở nông thôn, 717 học viên học tập trung. Toàn tỉnh bình quân cứ 2,5 người thì có 1 người đi học. Công tác thông tin văn hoá thường xuyên mang đến cho nhân dân trong vùng giải phóng món ăn tinh thần bổ ích và hào hứng. Được Lãnh đạo tỉnh, huyện rất quan tâm và cấp trên hết lòng hỗ trợ, cho nên từ các xã các bộ môn cần thiết đều được xây dựng và ra sức hoạt động. Tại thời điểm này, Quảng Trị có đủ các ngành như: Tuyên truyền - Cổ động, Chiếu bóng, Truyền thanh, Văn công, Văn hoá Văn nghệ, Thư viện, Nhà in, Bảo tàng, Phát hành sách, Báo... Mặc dù hoạt động văn hoá thông tin ở cơ sở không có lương, phụ cấp gì cả, nhưng lực lượng này tham gia làm việc rất hăng say, nhiệt tình, ý thức tự giác cao được nhân dân các thôn ấp góp phần bồi dưỡng hàng ngày hàng bửa để họ duy trì hoạt động.
Kết quả xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế,… trong vùng giải phóng những năm đầu sau giải phóng tuy quy mô còn nhỏ bé, chưa đồng bộ song rất đáng trân trọng. Chính nhờ những yếu tố cơ bản này mới bảo đảm đáp ứng kịp thời, có hiệu quả trong quá trình khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, phục vụ an ninh quốc phòng, đối ngoại của vùng giải phóng. Chính đó là vốn ban đầu để Quảng Trị đi lên trong những năm tiếp sau, như: các trạm máy kéo nông nghiệp, cơ giới hoá khai hoang, xí nghiệp cơ khí nông nghiệp, Nông trường Tân Lâm, Nông trường Cồn Tiên, Lâm trường Gio Cam, Lâm trường Triệu Hải, Xí nghiệp khai thác chế biến lâm sản; Công ty vận tải đường bộ, đường thuỷ; cảng Đông Hà; các đơn vị duy tu, sửa chữa, nâng cấp cầu đường quốc lộ 1, quốc lộ 9; Bệnh viện đa khoa, Trường Trung học đệ nhị cấp (PTTH); hệ thống cửa hàng, kho tàng thương nghiệp, lương thực… Sau hơn 30 năm nhìn lại, các cơ sở vật chất kỹ thuật của buổi ban đầu trong những ngày sau giải phóng ấy, đã có những cơ sở đã biến thành máu thịt của nền kinh tế - xã hội tỉnh nhà trong quá trình phát triển đi lên và có những cơ sở vật chất kỹ thuật như "Cồn Tiên - Thép trắng, cao su đất đỏ", "Tân Lâm - hồ tiêu", "Màu xanh sinh thái trên vùng cát trắng Gio Cam, Triệu Hải"… thì không những là máu thịt mà còn là nền móng, xương sống cho nền kinh tế tỉnh nhà trong quá trình đổi mới, hoà nhập, tiến lên trong hiện tại và tương lai của sự phát triển.
Hoạt động thông tin văn hoá ở vùng giải phóng Quảng Trị có những lúc, những việc lớn, quá lớn tưởng như phải là của một “Cơ quan và Địa phương lớn hơn” mới đảm đương nổi. Nổi bật như Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân Cách mạng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam tỉnh Quảng Trị đã long trọng tổ chức kỷ niệm các ngày truyền thống:
- Ngày 01/5/1973: Tổ chức Lễ kỷ niệm 1 năm ngày giải phóng Quảng Trị (01/5/1972 - 01/5/1973) tại thị xã Đông Hà, có hơn 7.000 nhân dân, cán bộ, chiến sỹ toàn tỉnh tham dự.

[1] Báo cáo số 796/BC- UB ngày 30/10/1974 của UBNDCM  tỉnh

 

Đoàn Đại biểu Quảng Trị do Chủ tịch UBND tỉnh Lê San thăm tỉnh Savannakhet kết nghĩa (năm 1973)


- Ngày 06/6/1973, tổ chức Lễ kỷ niệm lần thứ tư ngày thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (06/6/1969 - 06/6/1973) và Lễ ra mắt, khai trương trụ sở cơ quan Chính phủ Cách mạng lâm thời Công hoà Miền Nam Việt Nam tại địa điểm vùng giải phóng Cam Lộ - tỉnh Quảng Trị. Hơn 20.000 nhân dân, cán bộ, chiến sĩ vũ trang toàn tỉnh tham gia và chào mừng. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam; Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam; đồng chí Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và nhiều thành viên của Hội đồng cố vấn Chính phủ, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam tham dự. Nhân dịp này, ông Nguyễn Xiển, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và ông Nguyễn Côn, Phó Thủ tướng, Trưởng đoàn Đại biểu Chính phủ nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà và Đoàn đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đến thăm.
Đại sứ của các nước: Liên Xô, Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên, CHDCND Lào, Vương quốc Campuchia, CHDC Đức, Ba Lan, Hungari, Angiêri đến trình quốc thư lên Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ. Vùng giải phóng Quảng Trị nhân dịp này cũng đã đón tiếp trên 45 đoàn khách quốc tế, 109 đoàn khách trong nước và các tỉnh bạn đến thăm. Đặc biệt, tháng 9/1973, Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Cuba do Chủ tịch Fidel Castro dẫn đầu đã đến thăm Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam và vùng giải phóng. Ngày 14/11/1973, Đoàn đại biểu Đảng cộng sản Pháp do Đồng chí Tổng Bí thư Gioóc-Giơ-Mase dẫn đầu đến thăm vùng giải phóng Quảng Trị. 

 

Hiệp định kết nghĩa giữa UBNDCM tỉnh Quảng Trị với Hội đồng tỉnh Bologna (Italia) ký kết ngày 19/11/1973

Nhân dân Quảng Trị vinh dự thay mặt đồng bào Miền Nam làm nhiệm vụ đón tiếp, chào mừng các đoàn ngoại giao, khách quốc tế, bạn bè trong và ngoài nước đến thăm một tỉnh giải phóng đầu tiên ở Miền Nam Việt Nam. Được Trung ương nhất trí, Đoàn đại biểu Chính quyền tỉnh Quảng Trị đã tổ chức thăm chính thức tỉnh bạn Savannakhet (CHDCND Lào) - địa phương đã từng cùng chung sát cánh chiến đấu 20 năm với tình cảm cọng rau bẻ nữa, hạt muối chia đôi. Đoàn do đồng chí Lê San, Chủ tịch UBNDCM tỉnh làm Trưởng đoàn. Đoàn cũng đã mang theo dụng cụ sản xuất trao tặng tỉnh bạn cũng như bố trí Đoàn Văn công tỉnh đội tháp tùng sang phục vụ đồng bào vùng giải phóng tỉnh Savannakhet. Cuộc đón tiếp thân tình ở thị trấn Sê Pôn như anh em một nhà gặp lại nhau và cuộc chia tay đầy tình cảm lưu luyến. Sau đó, đáp lại tấm lòng của Chính quyền và nhân dân Quảng Trị, đồng chí Ấm Pô - Chủ tịch Ủy ban chính quyền tỉnh Savannakhet cũng đã đi thăm hữu nghị tỉnh Quảng Trị. Cuộc đi thăm hữu nghị của 2 vị đứng đầu chính quyền tỉnh tại thời điểm đó đã mở đầu tốt đẹp cho tình hình hữu nghị đặc biệt, keo sơn giữa nhân dân 2 nước nói chung và 2 tỉnh Quảng Trị - Savannakhet nói riêng cho đến nay.
  

Đoàn văn công giải phóng Quảng Trị sang thăm và biểu diễn phục vụ nhân dân tỉnh Savanakhet kết nghĩa (năm 1973)

Thường trực Đảng uỷ vùng bị tạm chiếm và BCH Quân sự tiền phương của tỉnh bàn phương án tác chiến cụ thể và hạ quyết tâm giải phóng quê hương, tháng 3/1975.

Nhằm thắt chặt tình đoàn kết cộng sản quốc tế, được sự hỗ trợ của Trung ương, Văn phòng UBNDCM tỉnh cũng đã phục vụ tốt Đoàn đại biểu do đồng chí Nguyễn Sanh - Phó Chủ tịch UBNDCM tỉnh làm Trưởng đoàn đi thăm hữu nghị tỉnh Bologna - 1 địa phương của Italia do Đảng cộng sản Italia lãnh đạo. Tại Bologna, Đoàn đã tập trung tuyên truyền về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai, về cuộc chiến đấu anh hùng của quân dân Quảng Trị, giải phóng hoàn toàn quê hương ngày 01/5/1972 và kêu gọi sự ủng hộ của bạn bè quốc tế và những người yêu chuộng hòa bình tại Italia. Trong chuyến đi thăm hữu nghị này, Bạn đã giúp tỉnh một số máy móc nông nghiệp, một số phương tiện vận tải cỡ nhỏ, những phương tiện đi lại, làm việc cho cán bộ, được UBNDCM tỉnh phân bổ cho các địa phương, các ngành phục vụ sản xuất và công tác. Với sự tham mưu đắc lực và tích cực của Văn phòng UBNDCM tỉnh, hoạt động ngoại giao trong thời kỳ này cực kỳ sôi động và mang lại nhiều kết quả đáng ghi nhận.Bên cạnh việc lo tổ chức trang trí, tuyên truyền các ngày lễ lớn của đất nước như 01/5, 06/6, 02/9, 20/12, Văn phòng UBNDCM tỉnh cũng đã tham mưu lãnh đạo Ủy ban chỉ đạo ngành Thông tin văn hoá tỉnh tích cực phối hợp với các ngành, đơn vị hữu quan tổ chức triển lãm giới thiệu thành tích sản xuất, chiến đấu, xây dựng và phát triển vùng giải phóng, thường xuyên tuyên truyền đường lối chính sách cách mạng cho nhân dân trong vùng giải phóng, cho sỹ quan binh lính của địch và nhân dân ta sống trong vùng tạm bị địch chiếm.
Việc cứu tế xã hội, trợ giúp những gia đình có công với nước được bắt đầu, đã cấp phát 13 tấn gạo, 127.670 đồng cho 2.880 người nghèo, tàn tật, cô đơn và 1.674 gia đình có công với nước đời sống gặp khó khăn. Công việc này tuy mới bắt đầu, làm chưa được hết theo yêu cầu nhưng có tác dụng tốt, đem lại lòng tin tưởng vào cách mạng đối với nhân dân trong vùng giải phóng.
Qua gần 2 năm (1973 - 1974) phấn đấu không ngừng, bộ mặt vùng giải phóng Quảng Trị đã có nhiều đổi thay. Kết quả đó có được là nhờ vào phong trào thi đua yêu nước của toàn dân, toàn quân trong tỉnh với tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường được động viên khơi dậy trong mỗi người cùng với sự chi viện to lớn của Miền Bắc XHCN. Tuy chưa tổ chức cho công dân trực tiếp bầu cử, nhưng Chính quyền cách mạng vùng giải phóng đã được củng cố từ cơ sở. Bộ máy chỉ đạo, quản lý, điều hành của chính quyền cách mạng tỉnh, huyện từng bước được kiện toàn. Đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân được cải thiện ngày một rõ rệt, đáng phấn khởi. Lực lượng vũ trang với 3 thứ quân được tăng cường đủ số lượng và bảo đảm chất lượng. Công tác an ninh được củng cố và tăng cường từ thôn xã đến huyện, tỉnh. Sau những đợt huấn luyện chính trị, tập huấn nghiệp vụ, chuyên môn, trình độ và năng lực của các lực lượng đã được nâng lên rõ rệt.
Nhằm tiếp tục hoàn thành sự nghiệp cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân; Tỉnh uỷ, UBNDCM tỉnh quyết định mở đợt sinh hoạt chính trị, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao trình độ năng lực Lãnh đạo, chỉ đạo cho cán bộ, Đảng viên các cấp các ngành theo từng lĩnh vực, nhất là cán bộ cơ sở, cán bộ chủ chốt.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, tháng 10/1974, Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Đảng uỷ Mặt trận Trị Thiên - Huế và chỉ định đồng chí Lê Tự Đồng, Bí thư Khu uỷ Trị Thiên - Huế làm Bí thư Đảng uỷ Mặt trận để lãnh đạo hiệp đồng thống nhất, phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả lực lượng bộ đội địa phương trên chiến trường Trị Thiên - Huế trong năm 1975. Chủ trương chỉ đạo thống nhất cơ bản là: “ Đánh bại cơ bản bình định của địch, tạo ra ở Trị Thiên một tình thế mới có ý nghĩa quyết định để chuẩn bị giành thắng lợi trong năm 1975, giải phóng hoàn toàn Trị Thiên - Huế”; Chủ trương lớn này cũng đồng thời nhấn mạnh: “Ở Trị Thiên - Huế phải tiến hành một chiến dịch tổng hợp cả quân sự và chính trị, bằng lực lượng chủ lực của Bộ, của địa phương quân khu, phối hợp chặt chẽ giữa 3 thứ quân, ba mũi giáp công. Trong chiến dịch đó nhằm tiêu diệt, làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực định; phải diệt gọn từng tiểu đoàn địch, tạo điều kiện đánh bại về cơ bản bình định của địch ở đồng bằng, giành phần lớn nhân dân, giành quyền làm chủ. Khi địch đã hoang mang giao động mạnh thì phải nhanh chóng chớp lấy thời cơ tiến lên hành động mạnh bạo, giành thắng lợi to lớn nhất”[1].
Hội nghị Tỉnh uỷ cuối tháng 12/1974, dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hành, Khu uỷ viên Khu Trị Thiên - Huế, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị, sau khi nghiên cứu Nghị quyết của Bộ chính trị và Nghị quyết của Khu uỷ Trị Thiên - Huế, Hội nghị đã ra Nghị quyết: "Quảng Trị quyết tâm phá vỡ từng mảng tuyến ngăn chặn, chia vùng của địch, giành và giữ dân, giải phóng đại bộ phận nông thôn đồng bằng còn bị địch kiểm soát”. Để tăng cường sự chỉ đạo của Cấp Uỷ đối với vùng tạm bị chiếm, Hội nghị Tỉnh uỷ quyết định thành lập Đảng uỷ chỉ đạo công tác vùng bị địch chiếm, đóng ở Vực Tròn (Tây Hải Lăng) và cử các đồng chí sau đây làm thường trực Đảng uỷ:
- Nguyễn Đức Dũng, Phó Bí thư Tỉnh uỷ làm Bí thư Đảng uỷ.
- Nguyễn Thư, Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó Chủ tịch UBNDCM tỉnh làm Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ.
- Lương Chí Hiền, Tỉnh uỷ viên, Chính trị viên Tỉnh đội, Uỷ viên.
- Phạm Ngọc Vy, Tỉnh đội trưởng, Uỷ viên.
- Nguyễn Minh Kỳ, Tỉnh uỷ viên dự khuyết, phụ trách thị Quảng - Hà, Ủy viên.
Tiếp thu Chỉ thị của Bộ tư lệnh quân khu, dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh uỷ, Ban Chỉ huy Tỉnh đội lên phương án tác chiến cụ thể. Trước khi đợt một tiến công (bắt đầu từ ngày 05/3 - 17/3/1975), trên chiến trường quân dân Quảng Trị đã có những hoạt động nhỏ kết hợp với triển khai chiến dịch, thu được một số kết quả đáng kể về mặt tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch, buộc địch phải rút một số chốt phía Tây Quốc lộ 1A. Ngày 15/3/1975, Thường vụ Quân uỷ Trung ương Chỉ thị: “Địch có thể rút chạy khỏi Quảng Trị và bắc Thừa - Thiên, co cụm xung quanh thành phố Huế, do đó phải khẩn trương, mạnh bạo, không đánh theo kế hoạch từng bước như trước nữa”. Căn cứ tình hình đang phát triển ở các địa phương và tư tưởng chỉ đạo mới của quân uỷ Trung ương, quân dân Quảng Trị chuẩn bị mọi mặt hoạt động theo tinh thần mới.
Đợt một tiến công kết thúc, ngày 17/3/1975, Thường vụ Khu uỷ Trị - Thiên - Huế nhận định: Địch đang dao động mạnh, thời cơ mới xuất hiện. Ta cần khẩn trương và mạnh bạo tiến công, dùng lực lượng tại chỗ đánh vào tuyến phòng thủ của chúng, kết hợp thọc sâu chia cắt, phá thế co cụm của địch, giành thắng lợi lớn ở đồng bằng, tiến tới bao vây và cô lập Huế, không cho địch rút khỏi Quảng Trị một cách an toàn, không cho chúng mang theo bọn phản động và lùa dân chạy vào vùng chúng kiểm soát. Trên cơ sở đánh giá tình hình, Thường vụ Khu uỷ và Quân khu Trị - Thiên - Huế thống nhất sử dụng lực lượng và quyết định mở đợt 2 tiến công.

[1] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Trị Tập II (1954 - 1975) - NXB Chính trị Quốc gia, trang 437 - 438.

Chiến dịch giải phóng hoàn toàn Quảng Trị


Đêm 17/3/1975, được sự thống nhất giữa đồng chí Lê Hành, Bí thư Tỉnh uỷ với các đồng chí Thường trực Đảng uỷ vùng tạm bị địch chiếm, Ban Chỉ huy quân sự tỉnh lên kế hoạch tấn công và phân công mỗi người về trực tiếp một hướng chỉ huy đánh địch. Các đơn vị trực tiếp các hướng tiến công, liên tục đánh địch giải phóng quê hương.
Đến 8 giờ sáng ngày 19/3/1975, Tiểu đoàn 14 từ hướng Tây- Bắc thị xã Quảng Trị đã tiến vào cắm lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam trên cột cờ Thành cổ Quảng Trị. Đúng 18 giờ 30 ngày 19/3/1975, những phần đất cuối cùng của Quảng Trị bị địch chiếm đóng từ sau Hiệp định Paris đã hoàn toàn được giải phóng. Tối 19/3/1975, Thường vụ Khu uỷ và Quân khu Trị - Thiên - Huế họp, thông qua phương án giải phóng Thừa Thiên - Huế.
Ngày 20/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam gửi điện biểu dương thành tích giải phóng "Thị xã Quảng Trị" và phần đất còn lại của tỉnh Quảng Trị; đồng thời ra lệnh cho bộ đội tham gia chiến dịch tiến công địch, không được dừng lại ở Mỹ Chánh. Trong những ngày cuối tháng 3 và tháng 4/1975, Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị đã tập trung sức lực tham gia chiến dịch giải phóng Huế- Đà Nẵng, tham gia phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, góp phần tích cực cùng với toàn miền và cả nước đè bẹp bè lũ tay sai bán nước, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất Đất nước.
Công tác khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống, thực hiện chủ trương hợp nhất Bình - Trị - Thiên  (19/3/1975 - 6/1976).
Ngày 19/3/1975, phần đất và số dân trên địa bàn thuộc thị xã Quảng Trị, huyện Triệu Phong và Hải Lăng từ sau Hiệp định Paris do quân ngụy Sài Gòn chiếm đóng đã được giải phóng hoàn toàn.
Tỉnh ủy, UBNDCM tỉnh nhận được bức điện của Thường vụ Khu ủy và Ban đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ở khu Trị - Thiên - Huế biểu dương thắng lợi. Bức điện có đoạn: "Nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh ủy, Ủy ban tỉnh, sự nỗ lực lớn của toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân Quảng Trị, chiều ngày 19/3/1975, tỉnh Quảng Trị đã hoàn toàn giải phóng; nhưng cần đề phòng tư tưởng xả hơi, nghỉ ngơi, mà phải đôn đốc các lực lượng vũ trang cách mạng Quảng Trị phát triển tiến công vào phía Nam. Vị trí của Quảng Trị hiện nay là hậu phương trực tiếp của Thừa Thiên - Huế; đồng thời, ra sức xây dựng vùng giải phóng, rút thanh niên bổ sung vào lực lượng Quân khu".
Với vị trí, đặc điểm của vùng giải phóng lần này, tỉnh không thành lập Ban quân quản mà sử dụng một bộ phận của Ban chỉ đạo phía trước của tỉnh làm Ban bảo quản tài sản, củng cố vùng mới giải phóng do đồng chí Nguyễn Thư, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBNDCM tỉnh làm Trưởng ban. 

Văn bản chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ do Văn phòng trình Chủ tịch UBNDCM tỉnh Lê San ký

Tuy ngày đầu giải phóng số dân còn lại tại chỗ chỉ khoảng 5.000 người, nhưng chỉ mấy ngày tiếp theo sau đó hàng vạn đồng bào "tùy nghi di tản" tránh "hòn tên mũi đạn" lần lượt trở về nơi thôn xóm cũ của mình mới giải phóng.
Nhằm bảo đảm đủ lực lượng đáp ứng thực thi nhiệm vụ mới đang đòi hỏi cần kíp, Văn phòng UBNDCM tỉnh đã tham mưu cho lãnh đạo Ủy ban phát lệnh điều động cấp tốc mỗi xã ở các huyện phía sau cử 3 cán bộ và 7 du kích tham gia quản lý củng cố vùng giải phóng. Chiều ngày 21/3/1975, 450 cán bộ và du kích tập trung tại thị tứ Diên Sanh - nơi đóng trụ sở của Tỉnh trưởng - vừa được giải phóng ngày hôm trước sẵn sàng nhận nhiệm vụ: tỏa về các thôn xã mới giải phóng, thực hiện canh gác các trục đường, ngõ xóm để quản lý, bảo vệ tài sản của nhân dân, đặc biệt là hồ sơ tài liệu "lượng giá ấp, danh sách điệp viên, cộng tác viên của chính quyền ngụy... và những tài liệu, hồ sơ khác mà bọn địch tháo chạy chưa kịp phá hủy", theo đúng nguyên tắc, kỷ luật và quy định của Ban bảo quản tài sản và củng cố vùng mới giải phóng.Đối với việc tiếp nhận vật tư kỹ thuật, tài sản hiện vật và trang thiết bị vật dụng quân cụ, ngụy quyền cấp tỉnh, ngụy quân cấp tiểu khu đóng tại Diên Sanh rút chạy để lại, UBNDCM tỉnh cử một đoàn cán bộ các ngành hữu quan do đồng chí Lê Ngọc Uynh, Tỉnh ủy viên, Ủy viên UBNDCM tỉnh, Trưởng Ty Thương nghiệp làm Trưởng đoàn tiếp quản.
Dưới sự lãnh đạo của tỉnh, sự chỉ đạo trực tiếp của Ban bảo quản tài sản và củng cố vùng mới giải phóng, tất cả cán bộ biệt phái, tăng cường của tỉnh nhanh chóng triển khai sâu rộng Chỉ thị số 55/CT-TU ngày 20/3/1975 của Thường vụ Tỉnh ủy, nhằm quán triệt 5 nội dung Chỉ thị đã nêu:
- Lực lượng vũ trang, an ninh phát huy thắng lợi, động viên khí thế hăng hái, nỗ lực quyết tâm tiếp tục tiến công địch. Nhân dân và các cơ quan, ban ngành, đơn vị tiếp tục cung cấp kịp thời, đầy đủ các lực lượng, lương thực, đạn dược, phương tiện, giao thông, điện đài... cho chiến đấu phía trước góp phần đắc lực giải phóng Thừa Thiên -Huế, quyết tâm làm tròn nghĩa vụ hậu phương trực tiếp của Khu.
- Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, giác ngộ, cổ vũ quần chúng thấy rõ thắng lợi của ta và suy yếu thất bại của địch, đem lại lòng tin tuyệt đối vào chế độ mới, ổn định tư tưởng, nơi ăn, chốn ở cho nhân dân. Tiếp tục tổ chức, giúp đỡ đưa đón dân từ các khu tập trung phía Nam trở về quê hương giải phóng, sớm ổn định tình hình, tiếp tục thúc đẩy sản xuất kịp mùa vụ, tích cực xây dựng vùng giải phóng.
- Giải tán ngay bộ máy ngụy quyền và các tổ chức vũ trang, chính trị phản động; thu hồi các loại vũ khí, tài liệu, phương tiện của địch... củng cố chính quyền cách mạng xã thôn đã có, thiết lập chính quyền cách mạng những thôn xã chưa có. Phát triển và củng cố lực lượng an ninh, du kích cả về số lượng, chất lượng và trang bị vũ khí. Phát động phong trào phòng gian, bảo mật và an ninh, trật tự an toàn trong nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ quê hương giải phóng. Giáo dục, vận động, tổ chức quần chúng gia nhập các đoàn thể cách mạng, tăng cường khối đoàn kết nông thôn, hết sức chăm lo công tác xây dựng Đảng, xây dựng nòng cốt lãnh đạo.
- Tuyên truyền nhanh, sâu rộng các chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam trong hết thảy mọi tầng lớp nhân dân, kiên quyết chấp hành đúng chính sách đã phổ biến, đã tuyên truyền, nhất là chính sách hòa hợp dân tộc, chính sách trấn áp bọn phản cách mạng và các chính sách đối với vùng mới giải phóng, vận động, khơi dậy tình đoàn kết, tương trợ nhau trong sản xuất, trong đời sống với khẩu hiệu "lá lành đùm lá rách", với tình làng, nghĩa xóm mọi người thương yêu nhau.
- Vùng giải phóng trước (từ 1972), tiếp tục động viên khí thế hăng hái, phấn khởi của quần chúng và các lực lượng, nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, xây dựng vùng giải phóng và sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm trong cuộc sống mới, khắc phục hậu quả bom mìn đối với đồng bào trở về trong vùng mới giải phóng (1975).
Trong thời kỳ này, nhờ được tăng cường thêm về điều kiện và lực lượng so với trước đó, Văn phòng UBNDCM tỉnh đã làm tốt hơn công tác tổng hợp, thông tin và đi sâu phân tích đề xuất, tham mưu với Thường trực Ủy ban những biện pháp chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quản lý điều hành, tổ chức sản xuất và đời sống đối với nhân dân. Đặc biệt là sự phối kết hợp chặt chẽ giữa Văn phòng cấp ủy với Văn phòng UBNDCM tỉnh thời gian này được thường xuyên hơn, góp phần tích cực cho sự chỉ đạo thống nhất và có hiệu quả của Lãnh đạo tỉnh.
 Để kịp thời phát huy khí thế cách mạng của quần chúng, nâng cao giác ngộ cách mạng, tiếp tục đánh tan luận điệu tuyên truyền lừa bịp của kẻ địch, thực hiện tốt chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc, chính sách đại đoàn kết, đẩy mạnh sản xuất, ổn định thôn xóm và ra sức xây dựng quê hương giải phóng; Văn phòng UBNDCM tỉnh và Văn phòng cấp ủy đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành tỉnh, 2 huyện Triệu Phong, Hải Lăng và cùng với nhân dân các địa phương lân cận, đặc biệt là đông đảo đồng bào mới được giải phóng tổ chức cuộc mít tinh hơn nửa vạn người tại sân bãi Diên Sanh (huyện Hải Lăng) vào sáng 29/3/1975.
Tại cuộc mít tinh này, đồng chí Lê Hành, Bí thư Tỉnh ủy đã đọc bài diễn văn quan trọng, nêu bật ý nghĩa lịch sử của thắng lợi giải phóng hoàn toàn quê hương Quảng Trị và phân tích rõ nhiệm vụ cấp bách và quan trọng trước mắt của toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân trong tỉnh; đồng thời phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn tỉnh, động viên đồng bào và các lực lượng thực hiện tốt an ninh trật tự từ thôn xóm, bảo vệ chính quyền cách mạng, thực hiện chính sách hòa hợp, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, trọng tâm là sản xuất lương thực thực phẩm, ổn định đời sống nhân dân.
Văn phòng UBNDCM tỉnh đã sắp xếp bố trí và phân công cán bộ Văn phòng cùng tháp tùng Lãnh đạo Tỉnh ủy, Thường trực Ủy ban tỉnh đi thăm vùng định cư của đồng bào Quảng Trị tại một số địa phương các tỉnh phía Nam: đồng chí Trần Mạnh Quỳ, Bí thư Tỉnh ủy Lãnh đạo đoàn vào Sài Gòn, đồng chí Lê San, Chủ tịch UBNDCM tỉnh dẫn đầu đoàn vào tỉnh Bình Tuy, đồng chí Nguyễn Thư, Phó Chủ tịch UBNDCM tỉnh đi vào Đà Nẵng; tới đâu, cán bộ Văn phòng lo tổ chức để Lãnh đạo tỉnh gặp mặt bà con quê hương, động viên con em đồng bào quê hương Quảng Trị hãy mang tài trí và nhiệt huyết về xây dựng lại Quảng Trị thân yêu.
Sau hai năm xây dựng vùng giải phóng (1973 - 1975), được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương, sự chi viện lớn lao về sức của, sức người của Miền Bắc XHCN và đặc biệt là quê hương Vĩnh Linh - Quảng Bình, hậu phương trực tiếp, luôn vì Quảng Trị thân yêu, đã góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp, giúp cho vùng giải phóng Quảng Trị vượt qua những khó khăn chồng chất để ổn định và xây dựng đời sống mới, kiến thiết và phát triển tạo dựng nên một diện mạo chính trị, kinh tế - xã hội sáng đẹp hiện hữu như hôm nay. Tại thời điểm này, phần lớn các cơ quan cấp tỉnh đã chuyển về thị xã Đông Hà, nhưng chủ yếu đóng ở vùng ven đô, vì nội thị còn hoang tàn, đổ nát và trơ trụi do hậu quả chiến tranh.
Ngày 05/4/1975, Trung ương Đảng có Quyết định giải thể Khu ủy Trị - Thiên - Huế. Tỉnh ủy Quảng Trị được bổ sung thêm nguồn cán bộ từ Trung ương và khu Trị - Thiên - Huế. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ được tăng cường và bổ sung, lên tới 17 cấp ủy viên (trước đó chỉ có 15 đồng chí).
Ngày 24/4/1975, Ban Chấp hành Tỉnh ủy họp và có sự phân công trách nhiệm, cụ thể mỗi đồng chí cấp ủy viên:
- Đồng chí Trần Mạnh Quỳ được Trung ương cử về làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Đồng chí Vũ Soạn, Phó Bí thư, trực Đảng.
- Đồng chí Lê Hành, Ủy viên Thường vụ, Chủ tịch UBMTDT giải phóng tỉnh.
- Đồng chí Lê San, Ủy viên Thường vụ, Chủ tịch UBNDCM tỉnh.
Từ sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng (19/3/1975), Văn phòng UBNDCM tỉnh đã giúp Lãnh đạo Ủy ban tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, với nội dung nhằm: củng cố và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính quyền, nhất là cơ sở.
Vùng mới giải phóng (1975), UBNDCM tỉnh và các huyện đã sử dụng hệ thống chính quyền ở vùng sơ tán chuyển về để bổ sung thêm. Nhờ vậy, chỉ sau 50 đến 60 ngày sau khi giải phóng, Ủy ban huyện được tăng cường, Ủy ban xã được bổ sung, chính quyền thôn tương đối được hoàn thiện. Đồng chí Lê San, Chủ tịch UBNDCM tỉnh đã trực tiếp cùng với cán bộ tổ chức xây dựng chính quyền tỉnh, huyện đi khảo sát, kiểm tra tình hình hoạt động của chính quyền xã, thôn ở các địa phương trong tỉnh, cùng dân chủ bàn bạc, đánh giá chọn lựa, cân nhắc, củng cố, bồi dưỡng, đào tạo cốt cán; đồng thời cũng phát hiện, uốn nắn những sai sót, lệch lạc; bổ khuyết nhiều vấn đề trong công tác điều hành, quản lý xã hội của chính quyền Nhà nước trong giai đoạn cách mạng mới. Khâu tổ chức thực hiện của chính quyền cơ sở còn rất lúng túng, thậm chí có nơi do tư tưởng chế độ cũ còn rơi rớt lại, làm sai chính sách, tư lợi cá nhân, hiện tượng mệnh lệnh gò ép, hách dịch đối với quần chúng nhân dân, gây những hạn chế không đáng có đối với lòng tin của nhân dân với chế độ mới.

Quân giải phóng và nhân dân bàn việc thiết lập chính quyền cách mạng vùng mới giải phóng

Để kịp thời sửa chữa, chấn chỉnh tình trạng yếu kém của chính quyền vừa được phát hiện, Ủy ban đã báo cáo với Thường vụ Tỉnh ủy và đã có quyết sách thay thế những cán bộ không bảo đảm tiêu chuẩn, quần chúng không tín nhiệm, và đưa lực lượng trẻ, có học, có thành tích trong chiến đấu và xây dựng, được nhân dân tín nhiệm vào thay thế, tiếp tục đảm đương công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của chính quyền, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chung của tỉnh.
Thành viên của UBNDCM tỉnh hoạt động lúc này có:
- Đồng chí Lê San, Chủ tịch
- Đồng chí Nguyễn Thư, Phó Chủ tịch
- Đồng chí Nguyễn Thị Hồng, Phó Chủ tịch
- Đồng chí Nguyễn Văn Lương, Ủy viên Thường trực Ủy ban
- Đồng chí Nguyễn Thủy, Trưởng Ty An ninh
- Đồng chí Trần Phố, Phó Tỉnh đội trưởng
- Đồng chí Lê Ngọc Uynh, Trưởng Ty Thương nghiệp
- Đồng chí Phan Văn Khánh, Trưởng Ty Nông Lâm Ngư Nghiệp-Thủy lợi
- Đồng chí Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trưởng Ty Thông tin Văn hóa
- Đồng chí Trần Văn Quy, Trưởng Ty Y tế
- Đồng chí Hồ Lôi, Ban chỉ đạo Miền Núi
Thời gian sau đó, đồng chí Nguyễn Văn Lương được cử làm Phó Chủ tịch UBNDCM tỉnh.
Lúc này, đồng chí Hồ Xinh, Phó Ban Kế hoạch Thống kê tỉnh được cử kiêm chức Chánh Văn phòng UBNDCM tỉnh thay đồng chí Nguyễn Đằng, Chánh Văn phòng có quyết định đi nhận công tác khác. Văn phòng UBNDCM tỉnh được tăng cường cả số lượng và chất lượng, bộ máy làm việc đã đi vào nề nếp với quy chế chặt chẽ. Thư ký đoàn giúp việc UBNDCM tỉnh là những chuyên viên có năng lực của các ngành, những cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật sâu và là nòng cốt lãnh đạo của các Ty, Ban ngành các tỉnh, các Cục, Vụ ở Trung ương được điều động đến. Theo tổng hợp của Văn phòng Ủy ban tỉnh, đến tháng 3/1976 bộ máy chuyên môn, nghiệp vụ gồm có 15 ty, 18 ban ngành trực thuộc, với 8.601 cán bộ tỉnh, huyện; 8.560 cán bộ xã, thôn có hưởng phụ cấp.
Đồng thời với việc tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn ngắn ngày tại địa phương, UBNDCM tỉnh đã có dự án kế hoạch bố trí cán bộ đi đào tạo dài hạn về chính trị, chuyên môn, kỹ thuật nhằm có đủ cán bộ đạt tiêu chuẩn cần có cho việc triển khai nhiệm vụ trong tương lai.
Văn phòng UBNDCM tỉnh đã khẩn trương tập trung xây dựng kế hoạch nhiệm vụ về chỉ đạo điều hành và quản lý toàn vùng lãnh thổ Quảng Trị phía Nam sông Bến Hải, tham mưu với Thường trực UBNDCM tỉnh nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh bảo đảm đời sống nhân dân, ổn định tình hình, đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ và xây dựng quê hương, bảo vệ thành quả cách mạng 30 năm chiến đấu và trưởng thành.
- Mở đợt tuyên truyền sâu rộng về thắng lợi to lớn của quân và dân ta: giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Giáo dục, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm chính trị, hòa hợp dân tộc, đại đoàn kết dân tộc. Kêu gọi, động viên số tàn quân, nhân viên ngụy quyền, phe phái phản động ra trình diện, nộp vũ khí, tài liệu...

Nhân dân hồ hởi chào mừng thành lập chính quyền cơ sở

- Nhanh chóng thiết lập an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Kiên quyết trấn áp bọn lưu manh, côn đồ, bọn ngoan cố không chịu cải tà quy chính và những hành động gây rối, càn quấy, quậy phá, cướp của, giết người.
- Hoan nghênh những gia đình ngụy quân ngụy quyền tin tưởng đường lối chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ động viên chồng con ra trình diện, thật thà hợp tác với chính quyền cách mạng, cùng với đồng bào an tâm, hăng hái tham gia vào công cuộc khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh, góp phần ổn định trật tự trị an trong khối cộng đồng dân cư.
- Phát động một chiến dịch toàn tỉnh, huy động một số sỹ quan, cán bộ kỹ thuật để thực hiện và hướng dẫn cho nhân dân, cho dân quân về công tác rà phá bom mìn, chất nổ, giải phóng đất đai, phục vụ sản xuất.
Với chiến dịch 50 ngày (từ 10/6 đến 30/7/1975), toàn tỉnh đã huy động lực lượng công binh, giáo viên kỹ thuật bom mìn của các đơn vị và bộ đội địa phương, dân quân du kích bao gồm 2.831 người, rà phá trên một diện tích 56.710.263 m2 đất canh tác và thổ cư, gỡ bỏ 58.984 mét rào kẽm gai và thu nhặt, vô hiệu hóa được 113.248 quả bom mìn các loại[1].
- Tổ chức sắp xếp, phân bổ nơi ăn ở và sản xuất hợp lý cho nhân dân các vùng trong tỉnh là một yêu cầu bức thiết, cần phải thực hiện ngay.
- Ngày 22/8/1975, tỉnh có Nghị quyết số 136/NQ: "Điều chỉnh lại mật độ dân cư, di chuyển một bộ phận nhân dân lên khai thác vùng kinh tế mới ở trung du, miền núi là yêu cầu rất cấp thiết có ý nghĩa rất nhiều mặt".
Văn phòng UBNDCM tỉnh tiếp tục cùng với Ban chỉ đạo xây dựng vùng kinh tế mới của tỉnh, của các huyện, thị và các ban ngành hữu quan tổ chức tuyên truyền, vận động, chuẩn bị địa bàn, điều kiện đưa dân đi và đón dân đến, tổ chức chỉ đạo thực hiện Nghị quyết.
Qua 6 tháng thực hiện, đến hết tháng 9/1975, huyện Triệu Phong đưa lên vùng Khe Sanh - Lao Bảo được 2.303 hộ, 12.562 khẩu, có 4.592 lao động và thành lập nên 6 xã mới trụ vững dọc theo trục lộ 9. Huyện Hải Lăng đưa lên vùng trung du Tây Gio Linh 2.400 hộ, 12.000 khẩu lập thêm 3 xã mới. Huyện Gio Linh thực hiện dãn dân lên trung du, sống xen kẻ được 623 hộ, 2.955 khẩu. Thị xã Đông Hà đón dân thuộc 3 vạn đò trên sông Thạch Hãn, sông Hiếu thành lập một khu dân cư mới ở Km 6, tiền thân địa bàn phường 4 hiện nay thuộc thành phố Đông Hà và gần 2 ngàn dân (lúc đầu) của vùng thị tứ Diên Sanh, vùng ven thị xã Quảng Trị... lập nên phường 5 của thành phố Đông Hà hiện nay[2].
Thời gian đầu, lãnh đạo còn thiếu kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng vùng kinh tế mới và những thiếu thốn, không quen điều kiện khí hậu, thời tiết mới của bà con trong những ngày đầu lập nghiệp trên vùng quê mới, dần dần được khắc phục, sửa chữa. Vùng kinh tế mới có nước sạch, có nhà ở, con em đến tuổi đi học đã có trường lớp, có thầy cô giáo, cơ sở khám chữa bệnh được xây dựng; nhân dân phấn khởi, an cư, trụ bám, bắt tay vào sản xuất xây dựng cuộc sống mới tại quê hương mới.

[1] Báo cáo của Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh tháng 8/1975.

[2] Báo cáo tổng hợp xây dựng vùng kinh tế mới của UBNDCM tỉnh 1975
 

Rà phá bom mìn, phục vụ khai hoang

 phục hoá

Khôi phục và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nhằm đáp ứng lương thực, thực phẩm trước mắt và ổn định lâu dài là nhiệm vụ hàng đầu của chính quyền cách mạng. Vận động nhân dân vừa trồng rau màu ngắn ngày, khẩn trương thu hoạch sản phẩm, tích cực khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích gieo trồng, tận dụng phụ phế phẩm trong trồng trọt để phát triển chăn nuôi. Cùng với Nông hội, Bộ phận nghiên cứu hợp tác hóa sản xuất nông nghiệp của Văn phòng UBNDCM tỉnh từng bước có những hướng dẫn tổ chức đổi công, vần công, tập đoàn, tổ đội sản xuất, tăng cường hỗ trợ nhau trong sản xuất về lao động, về giống cây, giống con, về sức kéo, làm thủy lợi, phòng trừ sâu bệnh, mua phân bón, sắm nông cụ... Kết quả vụ Đông Xuân 1975 - 1976 đưa vào sản xuất 32.000 ha, sản lượng chung đạt 62.056 tấn lương thực (kể cả màu). Phong trào sản xuất tự túc của cán bộ, công nhân viên chức, bộ đội được đẩy mạnh, tuy kết quả chưa thật tương xứng với đầu tư, nhưng đã góp phần không nhỏ để cải thiện đời sống trong thời buổi khó khăn đó.

Đào kênh mương thủy lợi phát triển nông nghiệp ngày đầu giải phóng

Chăn nuôi được chú ý phát triển đáng kể, không những tạo việc làm, tăng thu nhập mà còn giải quyết phân bón và thực phẩm, cải thiện đời sống. Đông Xuân 1975 - 1976 tổng đàn có 15.503 con trân bò, 91.000 con lợn (không kể lợn còn bú), bình quân 1,5 con/hộ tăng 30% so với Đông Xuân 1974 - 1975. Vịt đàn bước đầu phát triển ở Triệu Phong và một số xã ở Hải Lăng. Chăn nuôi gia cầm được phát triển đều khá hơn, từ các thôn xóm đến các gia đình cán bộ công nhân viên, đơn vị quân đội,... góp phần tăng thêm thực phẩm tươi sống cải thiện bữa ăn. Nhiệm vụ trồng cây gây rừng, cải thiện môi trường sống ở Quảng Trị sau chiến tranh hủy diệt của đế quốc Mỹ gây nên đã được Tỉnh ủy, Ủy ban rất quan tâm và được nhân dân, bộ đội, cán bộ đồng tình, hưởng ứng cao.
Công việc chuẩn bị cây giống được ngành Lâm nghiệp của Trung ương, của Vĩnh Linh, Quảng Bình hết lòng chi viện. Đồng chí Nguyễn Tạo, Tổng Cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp đã có ý chỉ đạo với lãnh đạo tỉnh: "Đối với Quảng Trị, phát triển cây giống là cộng sản chủ nghĩa". Đây cũng chính là sự quan tâm to lớn của Trung ương với một tỉnh đã bị hủy diệt cả mầm sống, cần sớm khôi phục lại màu xanh của quê hương. Cán bộ công nhân ngành lâm nghiệp Quảng Trị đã xây dựng được 3 vườn ươm lớn, Đoàn 559 một vườn ươm, có hàng triệu cây giống đủ tiêu chuẩn cho mùa trồng cây. Vụ Đông Xuân 1975 - 1976, toàn tỉnh đã phủ xanh hàng trăm ha bãi cát từ Cửa Tùng đến Cửa Việt, Quán Ngang, vùng cát nội đồng, ven biển, theo đường 9 từ Đông Hà, Cam Lộ đến Sa Mưu, Động Toàn bằng các giống phi lao, bạch đàn, xà cừ,... và các giống cây ăn quả như dừa, mít, trứng gà, nhãn, chuối....
Các phong trào sản xuất, các chiến dịch giải quyết sâu từng vấn đề tuy có những kết quả, song cũng phát sinh những sơ hở, yếu kém, thiếu vững chắc. Để kịp thời uốn nắn, bổ khuyết và tiếp tục đẩy mạnh sản xuất hơn nữa, Văn phòng Tỉnh ủy và Văn phòng UBNDCM tỉnh đã tham mưu Chỉ thị số 23 ngày 18/3/1976 nêu rõ những giải pháp, biện pháp cụ thể để thúc đẩy sản xuất có hiệu quả, giải quyết cái ăn trước mắt và đề phòng kỳ giáp hạt, mùa lũ lụt tới; đẩy mạnh việc lưu thông, trao đổi hàng hóa nông sản thực phẩm, phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện. Thương nghiệp phải nhanh chóng mở thêm cửa hàng ở những nơi cư dân tập trung, khôi phục lại các chợ nông thôn vốn có từ xưa tại các vùng đông dân, tổ chức tốt công tác thu mua các mặt hàng nông sản của nông dân sản xuất tại chỗ để kịp thời phục vụ đời sống của nhân dân, phân phối hàng thiết yếu định lượng tiêu chuẩn tận tay người tiêu dùng. Khuyến khích mạnh việc khôi phục làng nghề, các ngành tiểu thủ công nghiệp: gạch ngói, chum vại, vôi đá, cát sạn, đan lát, bún bánh… dịch vụ vận tải, phục vụ tiêu dùng và giao lưu các vùng.
- Sự nghiệp giáo dục được Tỉnh ủy, UBNDCM tỉnh rất quan tâm nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, mâu thuẫn (giữa nhu cầu đào tạo với cơ sở vật chất còn nghèo, thiếu thốn).
Cuối năm 1975, toàn tỉnh có 2.369 lớp và 35.000 học viên bổ túc văn hóa, trong đó khối mẫu giáo có 53 lớp với 1.996 cháu; cấp I với 102 trường, 1.778 lớp với 66.871 em học sinh; cấp II với 24 trường, 214 lớp với 9.995 em học sinh; cấp III với 3 trường, 29 lớp với 1.219 em học sinh. Trong niên khóa 1975 - 1976, toàn tỉnh có tỷ lệ bình quân 4 người dân có một người đi học. Sự nghiệp Y tế, đẩy mạnh thực hiện phương châm: "Tăng cường hơn nữa công tác phòng chống dịch, vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân, chăm lo điều trị, triển khai xây dựng các cơ sở Y tế".
Sau ngày 30/4/1975, Miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông Việt Nam đã liền một dải. Nhưng còn tồn tại hai chính phủ: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam.
Từ ngày 15/11/1975 đến 21/11/1975, tại thành phố Sài Gòn - Gia Định đã diễn ra Hội nghị Hiệp thương chính trị bàn vấn đề thống nhất Việt Nam về mặt Nhà nước. Hội nghị Hiệp thương chính trị đã quyết định Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung trong cả nước.
Ngày 25/4/1976, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất được tiến hành. Kết quả ở Quảng Trị có 4 đồng chí trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa VI (nhiệm kỳ 1976 - 1981):
1. Bà Hồ Thị Hương, Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Hướng Hóa.
2. Bà Nguyễn Thị Lý, Ủy viên Thư ký UBND xã Vĩnh Kim, huyện Vĩnh Linh.
3. Ông Nguyễn Chí Phi, Anh hùng lực lượng vũ trang QĐND Việt Nam.
4. Ông Hồ Sỹ Thản (tức Hồ Sỹ Thành) nguyên Phó Chủ tịch Ban đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam ở khu Trị - Thiên - Huế.
Từ ngày 20 - 22/12/1975, Hội nghị Đại biểu nhân dân Miền Nam Việt Nam đã họp tại thành phố Sài Gòn - Gia Định để nghe báo cáo và phê chuẩn kết quả Hội nghị Hiệp thương Chính trị thống nhất Tổ quốc.
Từ ngày 22 - 27/12/1975, Quốc hội nước VNDCCH khóa V họp kỳ thứ 2, có Nghị quyết về việc hợp nhất một số tỉnh, trong đó "giao cho Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hiệp thương với Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam để chuẩn bị hợp nhất tỉnh Quảng Bình, Khu vực Vĩnh Linh với các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên theo hướng đã nêu trong Hội nghị Hiệp thương Chính trị thống nhất Tổ quốc".
Tháng 02/1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam đã ký Nghị định về việc giải thể Khu, hợp nhất tỉnh ở Miền Nam. Theo Nghi định này, tỉnh Bình - Trị - Thiên  gồm 3 tỉnh cũ là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Sau ngày Đất nước thống nhất, đơn vị hành chính cấp Khu đều giải thể, Bình - Trị - Thiên  là một trong 38 đơn vị hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong cả nước.
Một năm, sau ngày quê hương được hoàn toàn giải phóng, Quảng Trị là một trong "3 tỉnh - 4 đơn vị hành chính" hợp nhất, cùng nhau bước vào thời kỳ mới, xây dựng tỉnh Bình - Trị - Thiên  theo tên gọi chính thức sau kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất tại Hà Nội từ ngày 24/6 - 03/7/1976.
Văn phòng UBNDCM tỉnh Quảng Trị và Văn phòng UBHC khu vực Vĩnh Linh được sát nhập với Văn phòng UBHC tỉnh Quảng Bình và Văn phòng UBHC tỉnh Thừa Thiên thành Văn phòng UBHC tỉnh Bình - Trị - Thiên  từ năm 1976.
Tóm lại, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lịch sử lại đặt trên vai Đảng và nhân dân ta một nhiệm vụ hết sức nặng nề: đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Trị, nhiệm vụ này diễn ra trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt: Quảng Trị bị chia cắt thành 2 Miền Nam, Bắc theo vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải). Bờ Nam sông Bến Hải là nơi được Mỹ - ngụy chọn làm địa bàn chia cắt chiến lược, vừa ngăn chặn sự tiến công của Miền Bắc, vừa làm bàn đạp để tiến công Vĩnh Linh và Miền Bắc khi có điều kiện.
Được định hướng và quy tụ bởi khát vọng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và với lòng tin sắt đá “Nhà tan cửa nát cũng ừ, đánh thắng giặc Mỹ cực chừ sướng sau”, dưới sự chỉ đạo sát sao của Trung ương Đảng và Chính phủ, trong suốt 22 năm (1954 - 1976) với nhiều dấu mốc lịch sử quan trọng liên quan đến Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 và Hiệp định Paris 1973, trải qua nhiều cam go và thử thách tưởng chừng không thể vượt qua, Văn phòng UBHC khu vực Vĩnh Linh cũng như lực lượng của ta ở Miền Nam sông Bến Hải đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho Lãnh đạo khu vực thực hiện thắng lợi công cuộc khôi phục, phát triển sản xuất tại Vĩnh Linh, làm nhiệm vụ hậu phương của tiền tuyến lớn, đánh thắng các cuộc chiến tranh phá hoại của kẻ thù, kịp thời chị viện cho Quảng Trị trong thời kỳ khó khăn nhất.