Chi tiết tin - VPUBND Tỉnh

VĂN PHÒNG UBND TỈNH QUẢNG TRỊ THAM MƯU LÃNH ĐẠO TỈNH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 2011 - 2015.

18-03-2022 09:38:25

1. Đường lối phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã thành công rực rỡ, mang lại không khí phấn khởi và niềm tin sâu sắc cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Sau hơn 25 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức cơ bản, quan trọng và to lớn; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện; quốc phòng, an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; thế và lực của Việt Nam trong khu vực và thế giới không ngừng được nâng cao. Những thành tựu to lớn đó là nền tảng vững chắc cho đất nước ta bước vào thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2050.
Đối với tỉnh ta, những thành tựu cùng với kinh nghiệm của 25 năm đổi mới và hơn 20 năm lập lại tỉnh, đặc biệt là sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV là những tiền đề cơ bản và quan trọng để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn tỉnh tiếp tục nổ lực, phấn đấu để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ 5 năm 2011 - 2015.
Ngày 24/9/2010, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV khai mạc. Đại hội đánh giá làm rõ những điểm mạnh, tiềm năng lợi chế của tỉnh, những điểm yếu, hạn chế, cơ hội và thách thức, từ đó xác định những khâu đột phá, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh ta trong 5 năm giai đoạn 2011 - 2015. Trên cơ sở đó, Đại hội đã đề ra các phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh cho giai đoạn 2011 - 2015 với mục tiêu tổng quát là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của các cấp chính quyền; phát huy sức mạnh tổng hợp khối đại đoàn kết toàn dân; huy động mọi nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá; giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội, môi trường, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh; phấn đấu đưa Quảng Trị phát triển nhanh, bền vững và đến năm 2015 GDP bình quân đầu người tăng gấp hơn hai lần năm 2010”[1]
Đại hội đã đề nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội khá cao để phấn đấu như: Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (bình quân 5 năm là từ 12 - 13%); chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo (giảm bình quân 2,5 -3%/năm)... Tuy nhiên, do tình hình thế giới, khu vực, an ninh biển, đảo có những diễn biến mới, phức tạp tác động bất lợi đến đất nước ta. Khó khăn, thách thức lớn hơn dự kiến ban đầu. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu; cùng với việc cắt giảm đầu tư công của Chính phủ và những hạn chế, yếu kém nội tại nền kinh tế của tỉnh... đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV. Nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, vượt qua khó khăn, thực hiện các mục tiêu của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; ngày 24/2/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP “Về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội”, trong đó đề ra một loạt các cơ chế, chính sách đối với đời sống kinh tế - xã hội năm 2011 và có tính xuyên suốt cho các năm tiếp theo. Nghị quyết gồm 6 nhóm giải pháp: (1) Chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; (2) Chính sách tài khóa, đầu tư công thắt chặt; (3) Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng; (4) Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo; (5) Tăng cường đảm bảo an sinh xã hội; (6) Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. Đây là các giải pháp căn bản để đảm bảo tăng trưởng bền vững năm nay và những năm tiếp theo. Ngày 16/3/2011, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 02-KL/TW ngày nêu rõ: “… Mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 gắn liền với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 là: Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Trong năm 2011 và một vài năm đầu của kế hoạch 5 năm 2011 - 2015, không quá câu thúc bởi mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng GDP năm 2011 cao hơn năm 2010 để tránh tạo ra lạm phát cao, tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm".

[1] Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV.

Cầu Cửa Việt Bắc qua sông Hiếu được khánh thành và đưa vào sử dụng từ ngày 17/7/2010 nối vùng ven biển hai huyện Gio Linh và Triệu Phong.

Nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt của Văn phòng UBND tỉnh Quảng Trị trong thời kỳ này là tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Tỉnh ủy, Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh, Ủy ban MTTQVN tỉnh, các Sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tập trung chỉ đạo xây dựng và thực hiện nhiều cơ chế chính sách cấp thiết, phù hợp nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh của các thành phần kinh tế, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư, phát huy mọi tiềm năng và lợi thế, chủ động, sáng tạo thực hiện thắng lợi các biện phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển 5 năm 2011 - 2015 theo Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XV là:
1. Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của nền kinh tế. Phát triển nông nghiệp toàn diện, theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa; tích cực đầu tư chiều sâu, gắn với giải quyết các vấn đề nông dân, nông thôn. Tổ chức sản xuất phải gắn với thị trường.
2. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp - xây dựng theo hướng hiện đại, vững chắc gắn với bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.
3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả các loại hình dịch vụ, tạo bước phát triển mạnh dịch vụ du lịch. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế; hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
4. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, tổng vốn huy động đầu tư phát triển toàn xã hội. Chăm lo phát triển văn hóa, sự nghiệp giáo dục, y tế; giải quyết có hiệu quả các vấn đề an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Phát triển toàn diện sự nghiệp giáo dục - đào tạo gắn với định hướng phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số, gia đình và trẻ em. Tích cực giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Phát triển khoa học công nghệ, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
5. Tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, chủ động mở rộng quan hệ hợp tác trong khu vực và quốc tế. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Trong thời kỳ này, lãnh đạo UBND tỉnh tiếp tục có sự thay đổi. Ban cán sự Đảng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đồng ý tăng thêm 1 Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị nhiệm kỳ 2011 - 2016 [1]. Cơ cấu UBND tỉnh nhiệm kỳ 2011 - 2016 gồm có 9 thành viên là: Chủ tịch UBND tỉnh, 4 Phó Chủ tịch UBND và 4 ủy viên UBND tỉnh. Đồng chí Nguyễn Đức Cường tiếp tục giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh. Tháng 7/2011, các đồng chí: Nguyễn Hữu Dũng - Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy - Bí thư Huyện ủy huyện Triệu Phong và đồng chí Mai Thức - Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy - Bí thư Thành ủy thành phố Đông Hà được bầu giữ chức Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Tháng 7/2013, đồng chí Lê Hữu Thăng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh nghỉ hưu. Tháng 11/2014, đồng chí Nguyễn Đức Cường nghỉ hưu. Tại kỳ họp thứ 13 (kỳ họp bất thường), HĐND tỉnh đã bầu và miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh khóa VI, nhiệm kỳ 2011 - 2016. Đồng chí Nguyễn Đức Chính, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh được bầu giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh khóa VI, nhiệm kỳ 2011 - 2016. Tháng 2/2015, HĐND tỉnh Quảng Trị khóa VI tiến hành kỳ họp thứ 15 (bất thường) để kiện toàn nhân sự UBND tỉnh. Đồng chí Hà Sỹ Đồng, Tỉnh ủy viên, Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh, Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh Quảng Trị được bầu giữ chức Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Bộ máy lãnh đạo UBND tỉnh đến tháng 6/2015, gồm: Đồng chí Nguyễn Đức Chính làm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch là: Đồng chí Mai Thức, đồng chí Nguyễn Hữu Dũng, đồng chí Nguyễn Quân Chính và đồng chí Hà Sỹ Đồng.
Trong thời kỳ này, một số đồng chí Trưởng phòng của Khối Nghiên cứu - Tổng hợp được bổ nhiệm và điều động làm lãnh đạo của các Sở, ngành. Do đó, ngoài việc tiếp tục kiện toàn, sắp xếp bộ máy hiện có, để tăng cường công tác tham mưu lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, Văn phòng UBND tỉnh đã báo cáo đề nghị lãnh đạo UBND tỉnh tiếp nhận thêm một số cán bộ của các sở, ban ngành về công tác tại Khối nghiên cứu - Tổng hợp. Đội ngũ chuyên viên của Khối đã tăng từ 13 đồng chí năm 2010 lên 18 đồng chí năm 2014 (bổ sung chuyên viên Văn xã, chuyên viên Nông nghiệp, chuyên viên Tài mậu, chuyên viên Công nghiệp...). Tháng 11/2013, đồng chí Nguyễn Chí Dũng nghỉ hưu, đồng chí Trần Anh Tuấn được bổ nhiệm Quyền Chánh Văn phòng. Đến tháng 12/2014, đồng chí Nguyễn Văn Bốn được bổ nhiệm Chánh Văn phòng. Các đồng chí Phó Văn phòng gồm: Đồng chí Trần Anh Tuấn, Trần Văn Thân, Nguyễn Cửu (bổ nhiệm tháng 10/2014). Tháng 3/2014, đồng chí Trần Văn Thân nghỉ hưu; đồng chí Lê Nguyên Hồng được bổ nhiệm Phó Chánh Văn phòng (tháng 6/2015)
Văn phòng UBND tỉnh cũng đã thực hiện sáp nhập Trung tâm Công báo vào Trung tâm Tin học theo Quyết định số 678/QĐ-UBND ngày 14/4/2011 của UBND tỉnh; chuyển Phòng Kiểm soát thủ tục hành chính thuộc Văn phòng UBND tỉnh qua Sở Tư pháp quản lý theo Quyết định số 2058/QĐ-UBND ngày 1/11/2013 của UBND tỉnh.
2. Văn phòng UBND tỉnh Quảng Trị tham mưu lãnh đạo tỉnh chỉ đạo thực hiện kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
Thực hiện công tác tham mưu giúp UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 trong điều kiện gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Do đó, Văn phòng UBND tỉnh xác định công tác tham mưu, tổng hợp nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội giai đoạn này là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt. Do vậy, tập thể lãnh đạo Văn phòng đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tham mưu, tổng hợp cho UBND tỉnh trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Cán bộ, công chức Văn phòng UBND tỉnh đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự giác trong công việc, tích cực nghiên cứu các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản chỉ đạo của Bộ, ngành Trung ương, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh; thường xuyên cập nhật thông tin, phân tích, đánh giá, nắm bắt tình hình kinh tế - xã hội để tham mưu cho HĐND tỉnh, UBND tỉnh ban hành các chủ trương, chính sách đúng qui định của pháp luật và phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
Văn phòng UBND tỉnh đã phối hợp với Văn phòng Tỉnh ủy tham mưu xây dựng Chương trình hành động của BCH Đảng bộ tỉnh khóa XV về tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; tham mưu UBND tỉnh, Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh xây dựng trình Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết và Chương trình hành động nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV như: Nghị quyết số 15/2011/NQ-HĐND ngày 12/8/2011 của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và các Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh. Tham mưu Ban Cán sự UBND tỉnh ban hành Kế hoạch hành động số 417/KHHĐ-BCS ngày 31/10/2011 thực hiện Chương trình hành động của BCH Đảng bộ tỉnh khóa XV và các chương trình hành động, kế hoạch hành động chuyên đề để chỉ đạo, cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra. Tham mưu UBND tỉnh xây dựng và hoàn thiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị đến năm 2020, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 321/QĐ-TTg ngày 2/3/2011 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị đến năm 2020 để định hướng chiến lược cho việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp huyện, quy hoạch ngành, lĩnh vực; chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm 2011-2015, kế hoạch hàng năm và nhiều cơ chế, chính sách để phát triển kinh tế - xã hội... nhằm mục tiêu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người so với cả nước; từng bước hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển mạnh hệ thống đô thị, tạo động lực phát triển cho các vùng trong tỉnh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong 5 năm, từ năm 2011 - 2015, Văn phòng UBND tỉnh đã tiếp nhận 98.588 văn bản của Trung ương, các ngành, địa phương và các tổ chức, đoàn thể... gửi đến (tính đến thời điểm 30/5/2015). Văn phòng UBND tỉnh đã làm tốt công tác tham mưu giúp UBND tỉnh, Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh xây dựng nhiều dự thảo Nghị quyết, Kết luận, Chương trình hành động của Tỉnh ủy, Nghị quyết của HĐND tỉnh triển khai kế hoạnh phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015, phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, về xây dựng nông thôn mới, về chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội... Tham mưu Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo quyết liệt, với những giải pháp linh hoạt, nhất là các lĩnh vực: thu hút đầu tư, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, cải thiện môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh, về sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, về phát triển nguồn nhân lực... Chất lượng công tác tham mưu, tổng hợp đã có những chuyển biến tích cực. Trong 5 năm đã tham mưu UBND tỉnh ban hành 35.627 văn bản chỉ đạo, điều hành hoạt động trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, trong đó đã tham mưu ban hành 154 văn bản quy phạm pháp luật phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

[1] Công văn số 3247/VPCP-TCCV ngày 20/5/2011 của Văn phòng Chính phủ.

Lãnh đạo tỉnh tham dự Hội nghị Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam - Lào - Thái Lan về Hành lang kinh tế Đông - Tây tháng 5/2012 tại thành phố Đông Hà.

Công tác tổng hợp và ban hành văn bản trong năm luôn được Văn phòng UBND tỉnh đặc biệt chú trọng, chất lượng văn bản ngày càng chuyển biến tích cực, đảm bảo nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Hầu hết các ý kiến đề xuất, tham mưu của Văn phòng UBND tỉnh đều được lãnh đạo UBND tỉnh chấp thuận và các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp thu, đánh giá cao. Công tác chỉ đạo, điều hành của tỉnh được đổi mới tích cực theo hướng linh hoạt, nhạy bén, quyết liệt, kịp thời và có hiệu quả, nhất là trong tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ, những giải pháp chủ yếu về chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ, về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường; về khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kiềm chế chỉ số tăng giá, cải thiện điều kiện sản xuất, kinh doanh...
Văn phòng chuẩn bị nội dung và phục vụ chu đáo các hội nghị, cuộc họp, các chuyến công tác, làm việc của lãnh đạo UBND tỉnh với Chính phủ, các Bộ, ngành, các cơ quan Trung ương, các Sở, ngành, địa phương. Phương pháp tham mưu đã có nhiều cải tiến, đổi mới. Công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện tiến độ văn bản chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh đã được quan tâm chỉ đạo sát sao, quyết liệt.
Trong năm 2011, tỉnh Quảng Trị tiếp tục nhận được sự quan tâm lãnh đạo, động viên, thăm hỏi của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các Đảng bộ, ngành Trung ương. Ngày 28-29/1/2011, đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương thăm và chúc tết Đảng bộ, chính quyền, nhân dân tỉnh Quảng Trị. Nhân kỷ niệm 66 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ cùng lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương đã đến thăm và làm việc tại tỉnh Quảng Trị. Các đồng chí: Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng (nay đồng chí Trương Tấn Sang là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước); Nguyễn Thiện Nhân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ (nay đồng chí Nguyễn Thiện Nhân là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch UBTWMT Tổ quốc Việt Nam); Nguyễn Thị Doan, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước; Đại tướng Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng... đã đến thăm và làm việc tại Quảng Trị, động viên Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị vượt mọi khó khăn, vươn lên giành được những thành tựu to lớn hơn nữa trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tặng quà cho các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và gia đình chính sách tiêu biểu tỉnh Quảng Trị.


Thực hiện kế hoạch năm 2011, năm đầu của kế hoạch 5 năm 2011 - 2015, trong điều kiện phải ưu tiên tập trung kiềm chế lạm phát, thắt chặt chi tiêu ngân sách và đầu tư công, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn do giá đầu vào và mặt bằng lãi suất tăng cao; trên địa bàn tỉnh, thiên tai đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến cơ sở vật chất hạ tầng của nhà nước và đời sống, sản xuất, sinh hoạt của nhân dân. Vụ đông xuân năm 2010-2011, rét đậm, rét hại và mưa dầm kéo dài từ tháng 1 đến tháng 3/2011 đã làm cho 9.700 ha lúa bị ảnh hưởng, trong đó diện tích gieo lại 3.800 ha, làm chậm tiến độ thời vụ sản xuất vụ hè thu và gây thiệt hại cho nông dân. Dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi bùng phát. Bão số 4 vào cuối tháng 9/2011 đã gây thiệt hại nặng trên địa bàn tỉnh... Với tinh thần quyết tâm cao, vượt qua khó khăn, thách thức giành thắng lợi ngay từ năm đầu, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu giúp UBND tỉnh tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, chỉ đạo thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, chống lãng phí; chỉ đạo các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, tập trung vào những sản phẩm có sức cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ ổn định; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất, tăng cường xúc tiến thương mại; đồng thời chỉ đạo sử dụng hiệu quả nguồn vốn khuyến công nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp ổn định sản xuất, đầu tư mở rộng quy mô, đổi mới dây chuyền công nghệ, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Nhờ đó, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong năm 2011 ổn định và có những mặt tăng trưởng khá: Tốc độ tăng trưởng GDP cả năm đạt 9,6%; kim ngạch xuất khẩu đạt 58,5/58 triệu USD, vượt 0,8% kế hoạch; tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.336,2/1.000 tỷ đồng, vượt 33,6% kế hoạch năm. Một số sản phẩm nhờ có sức cạnh tranh cao và thị trường tiêu thụ tương đối ổn định nên đã tăng so với cùng kỳ năm 2010 như: ván gỗ MDF tăng 14,6%, phân bón NPK tăng 26,2%, tinh bột sắn tăng 14,2%, quặng titan tăng 6,7%, gạch xây dựng tăng 5,6%, gỗ xẻ các loại tăng 16,9%, quần áo may sẵn tăng 3,7%, nước giải khát tăng 13,3%... Sản xuất công nghiệp vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.900 tỷ đồng, tăng 15,7% so với năm 2010. Trong đó: khu vực nhà nước tăng 8,6%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 21,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 4,3%. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều tăng khá cao so với cùng kỳ năm 2010. Hoạt động thương mại và dịch vụ mặc dù tiếp tục gặp nhiều khó khăn do diễn biến phức tạp của hình kinh tế thế giới và trong nước nhưng vẫn giữ được mức tăng trưởng khá. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ cả năm thực hiện 12.612 tỷ đồng, tăng 32,8% so năm 2010 và vượt 19,6% so với kế hoạch. Văn phòng đã tham mưu UBND tỉnh tổ chức có hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Trong sản xuất nông nghiệp, nhờ tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp tích cực, hiệu quả nên vụ Đông Xuân 2010-2011 tỉnh ta được mùa toàn diện, năng suất lúa bình quân toàn tỉnh đạt 53,05 tạ/ha. Vụ Hè Thu tuy bị ảnh hưởng của bão lụt nhưng năng suất lúa đạt 47,6 tạ/ha (tăng 6,7 tạ/ha), sản lượng đạt 10,2 vạn tấn, đưa tổng sản lượng lúa cả năm đạt 23,5 vạn tấn, tăng 9,1% so với năm 2010; Tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm đạt 24,3 vạn tấn, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2010 và vượt 8,6% so với kế hoạch. Diện tích trồng mới rừng tập trung đạt 5.300 ha, vượt 6% kế hoạch; toàn tỉnh đã trồng được 2,1 triệu cây phân tán, bằng 84% kế hoạch; diện tích rừng trồng được chăm sóc ước đạt 19.385 ha, tăng 3% so với năm 2010. Sản lượng gỗ khai thác đạt 175.300m3, tăng 28,2% so với cùng kỳ năm 2010[1].
Văn phòng đã tham mưu UBND tỉnh triển khai Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh. Đã tham mưu UBND tỉnh đã ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện tốt các nội dung theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 945/QĐ-TTg ngày 20/6/2011, trong đó đã thiết lập được hệ thống kiểm soát thủ tục hành chính từ cấp tỉnh đến cơ sở; xây dựng và ban hành đồng bộ các văn bản chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn về công tác kiểm soát thủ tục hành chính.
Năm 2011 là năm đầu thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011 - 2015[2]. Với sự chỉ đạo quyết liệt của UBND tỉnh và nỗ lực của các cấp, các ngành nên việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia trong năm 2011 đã bước đầu phát huy hiệu quả, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề khó khăn của đời sống nhân dân, nhất là ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc; việc hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản các chương trình mục tiêu quốc gia cũng đã góp phần hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2011 của tỉnh.
Văn phòng đã tham mưu cho lãnh đạo UBND tỉnh triển khai nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư như: Tổ chức hội nghị xúc tiến và kêu gọi đầu tư tại thành phố Hồ Chí Minh; Hội nghị xúc tiến đầu tư vào Khu thương mại Lao Bảo - Đensavan; phối hợp với VCCI tổ chức Hội thảo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Tham mưu UBND tỉnh tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, giải quyết vướng mắc và động viên kịp thời nhằm giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh và hoạt động hiệu quả. Năm 2011, Khu công nghiệp Bắc Hồ Xá đã được Thủ tướng Chính phủ đưa vào quy hoạch, triển khai lập quy hoạch chi tiết để trình Chính phủ ban hành quyết định thành lập. Một số công trình lớn hoàn thành đưa vào sử dụng như: Quảng trường và Nhà văn hoá trung tâm tỉnh; Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh; Trạm nghiền klinke công suất 250.000 tấn/năm; Nhà máy thủy điện Hạ Rào Quán công suất 6,4 MW; Nhà máy thủy điện La La công suất 3MW; Thuỷ điện Đakrông 2 công suất 18 MW; Thuỷ điện Đakrông 3 công suất 8 MW; Kho cảng xăng dầu Cửa Việt có dung tích chứa 45.000m3…

[1] Báo cáo số 17/BC-UBND ngày 20/02/2012 của UBND tỉnh.

[2] Theo Quyết định số 2331/QĐ-TTg ngày 20/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành danh mục các Chương trình mục tiêu quốc gia năm 2011.

Quảng trường và Nhà văn hoá trung tâm tỉnh.

Văn phòng cũng đã tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo sử dụng hiệu quả nguồn vốn khuyến công nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp ổn định sản xuất, đầu tư mở rộng quy mô, đổi mới dây chuyền công nghệ, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Văn phòng UBND tỉnh thường xuyên làm tốt công tác đôn đốc, rà soát và tham mưu lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo công tác quy hoạch và đầu tư phát triển vùng kinh tế động lực; tham mưu các phiên làm việc của UBND tỉnh với Chính phủ, Thủ tướng chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương và phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tranh thủ sự quan tâm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho tỉnh, đồng thời đề xuất Trung ương tháo gỡ một số khó khăn trong thực hiện cơ chế, chính sách nhằm thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Văn phòng UBND tỉnh đã phối hợp với các Sở, ngành hoàn chỉnh Đề án thành lập Khu Kinh tế Đông Nam Quảng Trị, báo cáo UBND tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập khu kinh tế này (nằm trong quy hoạch phát triển các khu kinh tế của cả nước). Để có cơ sở kêu gọi đầu tư, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh cho lập và phê duyệt quy hoạch chung xây dựng vùng lõi của khu Đông Nam tỉnh Quảng Trị. Khu công nghiệp Nam Đông Hà, Khu công nghiệp Quán Ngang, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo và 13 cụm công nghiệp trong toàn tỉnh được quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng. Các cụm công nghiệp Đông Lễ, Ái Tử, Diên Sanh… được quan tâm đầu tư và đã có nhiều doanh nghiệp đăng ký đầu tư sản xuất.
Ngày 30/3/2011, tại Quyết định số 459/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam giai đoạn 2015, định hướng đến năm 2025. Trong giai đoạn 2014 - 2016 sẽ xây dựng hệ thống đường ống dẫn khí từ các lô 112 - 113 - 111/4 (mỏ Báo Vàng) về tỉnh Quảng Trị với công suất dự kiến khoảng 1-3 tỷ m3/năm và xây dựng nhà máy xử lý khí công suất dự kiến 1-3 tỷ m3/năm (2014-2017). Xác định việc triển khai xây dựng đường ống dẫn khí ngoài khơi từ mỏ Báo Vàng vào Quảng Trị và xây dựng nhà máy xử lý khí tại Quảng Trị có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển các dự án và các ngành công nghiệp sử dụng khí tại Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị và kết nối năng lượng giữa các nước ASEAN qua tuyến Quốc lộ 9. Ngày 27/6/2011, lãnh đạo UBND tỉnh làm việc với Tổng Công ty khí Việt Nam (Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam) để có kế hoạch đưa khí đốt từ mỏ Báo Vàng vào địa bàn tỉnh. Sau cuộc họp, Tổng Công ty khí Việt Nam đã quyết định chọn vùng biển Mỹ Thủy thuộc tỉnh Quảng Trị cho dự án này; đồng thời tổ chức khảo sát xây dựng dự án đưa khí vào bờ với đường ống từ mỏ Báo Vàng (lô 113) vào Quảng Trị dài 120 km, có công suất thiết kế từ 1-3 tỷ m3/năm.
Trong điều kiện phải ưu tiên tập trung kiềm chế lạm phát, thắt chặt chi tiêu ngân sách và đầu tư công, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; tăng trưởng kinh tế của cả nước ước đạt thấp, nhưng mức tăng trưởng kinh tế của tỉnh năm 2011 vẫn đạt được 9,6% và hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch là một nỗ lực lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh, trong đó có sự đóng góp của Văn phòng UBND tỉnh. Bên cạnh đó, các lĩnh vực văn hóa - xã hội đạt được nhiều kết quả tích cực. Sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo được quan tâm phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng. Mạng lưới y tế, cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế được chú trọng đầu tư, từng bước nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; hoạt động y tế dự phòng thực hiện có hiệu quả. Đời sống văn hóa, tinh thần của các tầng lớp nhân dân không ngừng được nâng cao. Bảo đảm an sinh xã hội, công tác chăm lo cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách và những vùng khó khăn được tiếp tục coi trọng. Nhiều chế độ, chính sách về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội mới triển khai hoặc bổ sung theo hướng tăng mức hỗ trợ và mở rộng diện thụ hưởng nhằm giúp người nghèo, người có thu nhập thấp, các đối tượng chính sách vượt qua khó khăn. Quốc phòng - an ninh được giữ vững, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố và tăng cường. Tỉnh đã tổ chức lễ khánh thành và đưa vào hoạt động công trình Trung tâm văn hóa tỉnh (01/7/2011). Đây là công trình văn hóa lớn, hiện đại của tỉnh có quy mô trên 1.000 chỗ ngồi, tổng mức đầu tư trên 144 tỷ đồng. Văn phòng UBND tỉnh tham mưu giúp UBND tỉnh phối hợp với Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch tổ chức chương trình Liên hoan ca múa nhạc ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Tham dự liên hoan có hơn 700 diễn viên, nghệ sĩ đến từ 12 đơn vị (10 đơn vị trong nước và 2 đơn vị quốc tế).
Nhiều sự kiện, hoạt động văn hóa, văn nghệ, tri ân liệt sỹ được tổ chức trong năm 2011 như: Chương trình Lễ Tri ân và Lưu danh Liệt sĩ Thành cổ Quảng Trị đã được tổ chức với chủ đề “Tên anh đã thành tên đất nước”, tại Bến thả hoa Thành cổ Quảng Trị, bên bờ sông Thạch Hãn, thị xã Quảng Trị (tối 10/7), với sự tham dự của hàng trăm cựu chiến binh đã chiến đấu ở Quảng Trị năm 1972, gia đình thân nhân các liệt sỹ đã hy sinh tại Thành cổ; Tổ chức trao nhà tình nghĩa cho thân nhân liệt sĩ Thành cổ và trao học bổng cho học sinh là con em gia đình chính sách, gia đình có công có hoàn cảnh khó khăn ở tỉnh Quảng Trị; Đại lễ cầu siêu tri ân - Lưu danh Liệt sĩ Thành cổ Quảng Trị do Dự án Văn hóa Uống nước nhớ nguồn thuộc Trung tâm Thông tin truyền Thông Vì môi trường phát triển, Công ty Văn hóa Trí tuệ Việt phối hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức… Đặc biệt, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 (tổ chức vào ngày 22/5/2011) được chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc: Gần 42 vạn cử tri trong toàn tỉnh Quảng Trị (đạt tỷ lệ 99,65%) đã hân hoan tham dự lễ khai mạc và lần lượt bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2011 - 2016 tại 931 điểm bỏ phiếu ở 10 huyện, thị xã, thành phố. Kết quả của cuộc bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp đã thành công tốt đẹp, bầu đủ số lượng đại biểu theo quy định.

Đồng chí Nguyễn Hữu Dũng - Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm việc với công ty TNHH MTV Cấp nước và Xây dựng Quảng Trị về công tác cổ phần hóa.

Năm 2012, Văn phòng tham mưu UBND tỉnh thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động phức tạp. Nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do thị trường thu hẹp, sức mua giảm mạnh, hàng tồn kho lớn, lãi suất tín dụng tăng cao. Cả nước phải ưu tiên tập trung kiềm chế lạm phát, giảm mạnh tăng trưởng tín dụng, thắt chặt chi ngân sách và đầu tư công, sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn. Trên cơ sở đánh giá thực trạng tình hình và kết quả thực hiện các ngành, lĩnh vực trong năm 2011, xu thế phát triển, tiềm năng và triển vọng cũng như các chủ trương, chính sách điều hành kinh tế mới của Chính phủ trong năm 2012, Văn phòng UBND tỉnh Quảng Trị đã tham mưu thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát năm 2012 của tỉnh là: “Huy động mọi nguồn lực, khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy sản xuất phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, phấn đấu tăng trưởng kinh tế trên 10%. Đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Quản lý, bảo vệ và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường bền vững. Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng, chống tham nhũng. Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội” [1]
Văn phòng đã tham mưu Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành nhiều Chương trình hành động, Nghị quyết lớn như: Nghị quyết chuyên đề xây dựng và phát triển thành phố Đông Hà đến năm 2010. Tham mưu 6 Chương trình hành động của Tỉnh ủy về: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biển, đảo trong tình hình mới; về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020; về chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 - 2020; về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020; về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020”; về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông.
Tham mưu UBND tỉnh trình HĐND tỉnh ban hành nhiều Nghị quyết, Đề án phát triển kĩnh vực văn hoá - xã hội như: Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐND ngày 13/4/2012 của HĐND tỉnh về giảm nghèo bền vững đối với các xã, thôn, bản, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có tỷ lệ hộ nghèo cao; Nghị quyết số 07/2012/NQ-HĐND ngày 13/4/2012 của HĐND tỉnh về chương trình mục tiêu việc làm - dạy nghề tỉnh Quảng Trị, giai đoạn 2012 - 2015; Nghị quyết số 16/2012/NQ-HĐND ngày 17/8/2012 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị quyết số 28/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của HĐND tỉnh về việc chuyển đổi các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông bán công trên địa bàn tỉnh sang loại hình công lập; Nghị quyết số 17/2012/NQ-HĐND ngày 17/8/2012 về phổ cập bậc trung học tỉnh Quảng Trị, giai đoạn 2012 - 2020. Ngoài ra còn tham mưu HĐND tỉnh ban hành những nghị quyết chuyên đề như: Nghị quyết số 12/2012/NQ-HĐND ngày 17/8/2012 về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015) của tỉnh Quảng Trị; Nghị quyết số 18/2012/NQ-HĐND ngày 17/8/2012 về thông qua Đề án Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Trị đến năm 2020, định hướng đến năm 2025; Nghị quyết số 19/2012/NQ-HĐND ngày 17/8/2012 về quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 - 2020 của tỉnh Quảng Trị...

[1] Nghị quyết số 18/2011/NQ-HĐND ngày 9/12/2011 của HĐND tỉnh
Quảng Trị

Khu đô thị Nam Đông Hà

 Năm 2012 là năm tỉnh Quảng Trị tổ chức nhiều hoạt động Kỷ niệm các ngày lễ lớn, trọng tâm là Kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị (1/5/1972 - 1/5/2012) và các hoạt động khác như: Kỷ niệm 105 năm ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (7/4/1907 - 7/4/2012); Lễ Thượng cờ “Thống nhất non sông” và đón nhận biểu tượng Khuê Văn Các (Hà Nội) và Bến Nhà Rồng (thành phố Hồ Chí Minh) của thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trao tặng trưng bày tại Bảo tàng “Khát vọng thống nhất”, trong không gian của Khu di tích đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải; Hội thảo khoa học lịch sử 40 năm giải phóng Quảng Trị và sự kiện 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị; Chương trình tri ân các Anh hùng Liệt sỹ... Ngày 1/5/2012, tại Quảng trường Trung tâm Văn hóa tỉnh, Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh Quảng Trị long trọng tổ chức lễ mít tinh kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị 1/5 (1972 - 2012). Buổi mít tinh đã diễn ra chương trình diễu binh, diễu hành quy mô lớn của các lực lượng vũ trang, các ban ngành, đoàn thể và nhân dân các địa phương trong tỉnh, khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết, biểu dương những thành tựu to lớn, toàn diện về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị. Lễ kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị được truyền hình trực tiếp trên sóng VTV1 Đài Truyền hình Việt Nam và được nhiều cơ quan thông tấn báo chí trung ương và địa phương đến dự và đưa tin, góp phần quảng bá hình ảnh về mảnh đất và con người Quảng Trị anh hùng. Ngoài ra còn có các hoạt động kỷ niệm ngày giải phóng quê hương, đón nhận các danh hiệu của nhiều địa phương, đơn vị trong tỉnh. Các lễ hội thu hút hàng trăm đoàn khách với hàng ngàn cựu chiến binh, các tổ chức, cơ quan, ban, ngành từ Trung ương, các địa phương trong cả nước về tham dự các hoạt động lễ hội của tỉnh và tham quan, thăm viếng, hoài niệm về chiến trường xưa...
Nhờ công tác chuẩn bị khá chu đáo, Văn phòng UBND tỉnh đã chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong toàn tỉnh thực hiện tốt công tác tổ chức các hoạt động, các sự kiện, các lễ hội để lại những dấu ấn đặc biệt đối với đại biểu và nhân dân tỉnh nhà cũng như nhân dân trong cả nước hướng về ngày vui giải phóng, thống nhất non sông; về những thành tựu to lớn của Quảng Trị qua 40 năm xây dựng và phát triển... góp phần quảng bá hình ảnh về mảnh đất và con người Quảng Trị anh hùng. Văn phòng UBND tỉnh cũng đã thực hiện tốt nhiệm vụ đón tiếp, hướng dẫn đại biểu của Trung ương, của các tỉnh, thành phố trong cả nước tận tình, chu đáo, nồng hậu... tạo được ấn tượng sâu sắc trong lòng nhân dân và bạn bè trong và ngoài nước về một Quảng Trị thân thiện, mến khách.
Văn phòng UBND tỉnh đã phối hợp với các Sở, ban, ngành tham mưu UBND tỉnh tổ chức Lễ hội văn hóa - du lịch “Nhịp cầu xuyên Á” lần thứ III - Quảng Trị năm 2012 với chủ đề “Vòng tay bè bạn”. Lễ hội thu hút sự tham gia của nhiều tỉnh, thành phố thuộc các nước Việt Nam, Lào, Thái Lan, Myanma, Trung Quốc với nhiều hoạt động như Hội thảo quốc tế với chủ đề: “Hợp tác phát triển kinh tế - du lịch tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây”; Hội nghị hợp tác phát triển du lịch 3 tỉnh Mukdahan - Savannakhet - Quảng Trị; Hội chợ Công thương miền Trung - Tây Nguyên, các hoạt động triển lãm, biểu diễn văn hóa nghệ thuật... diễn ra từ ngày 25 - 31/7/2012.

Diễu hành kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị

Văn phòng đã chuẩn bị chu đáo công tác hậu cần phục vụ Hội nghị Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam - Lào - Thái Lan về Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC) diễn ra vào ngày 18/5/2012 tại thành phố Đông Hà. Hội nghị nhằm tạo cơ chế trao đổi thường xuyên ở cấp Thứ trưởng hoặc quan chức cao cấp trong việc thúc đẩy phát triển EWEC; tạo kênh đối thoại tích cực và cởi mở giữa Chính phủ ba nước, lãnh đạo các địa phương tại các khu vực dọc hành lang nhằm giải quyết khó khăn, thách thức và xúc tiến các hoạt động đầu tư, kinh doanh dọc tuyến hành lang.
Bên cạnh tham mưu tổ chức các hoạt động lễ hội, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ, khẩn trương các nhiệm vụ và giải pháp đề ra theo Nghị quyết của Chính phủ, của HĐND tỉnh. Kịp thời tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch hành động, xác định các nhiệm vụ trọng tâm, chương trình trọng điểm và phân công trách nhiệm cụ thể cho các Sở, ban, ngành cấp tỉnh, các cơ quan Trung ương trên địa bàn và UBND các huyện, thành phố, thị xã tổ chức thực hiện. Đồng thời, tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện các chương trình, đề án, chính sách địa phương theo các Nghị quyết của HĐND tỉnh đã ban hành.
Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu lãnh đạo UBND tỉnh tích cực tìm kiếm các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào Khu kinh tế Đông Nam. Trong chuyến thăm và làm việc tại Vương quốc Thái Lan từ ngày 20/5 đến ngày 27/5/2012, lãnh đạo UBND tỉnh Quảng Trị và lãnh đạo Công ty One Asean Development (Thái Lan) đã tiến hành ký kết Biên bản ghi nhớ về việc phát triển Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị theo hướng kết hợp giữa dự án xây dựng cảng biển nước sâu Mỹ Thủy với nhà máy nhiệt điện than công suất 1.200 MW.
Trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu và chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ, công tác thu hút đầu tư phát triển của tỉnh Quảng Trị  gặp nhiều khó khăn. Năm 2012, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu cho UBND tỉnh đăng cai tổ chức thành công Hội nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG). Trước, trong và sau Hội nghị, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu cho lãnh đạo tỉnh tổ chức nhiều phiên đối thoại, gặp gỡ với các nhà tài trợ để đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư; tích cực làm việc với các Bộ, Ngành Trung ương và các nhà tài trợ để hiện thực hóa các nội dung của Hội nghị. Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu Tỉnh cũng đã tổ chức thành công Hội nghị Thứ trưởng Ngoại giao 3 nước Việt Nam - Lào - Thái Lan về hành lang kinh tế Đông - Tây; Hội nghị Xúc tiến đầu tư Hàn Quốc vào Quảng Trị và tổ chức nhiều cuộc tiếp xúc, gặp gỡ, trao đổi với các đối tác đầu tư. Nhờ đó, công tác xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh, có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả khả quan. Sau các hội nghị nói trên, tỉnh đã thương thảo rút ngắn thời gian một năm về tiến trình đàm phán và ký kết Hiệp định đối với 2 dự án có quy mô lớn là Đường giao thông liên xã Thạch Kim - Hiền Hòa (Ả Rập - Xê Út tài trợ 16 triệu USD) và Dự án đầu tư Phát triển Đô thị dọc hành lang tiểu vùng sông Mê Kông (ADB tài trợ) cho tỉnh Quảng Trị là 101,07 triệu USD). Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đầu tư 16,9 triệu USD để thực hiện Dự án kè chống xói lỡ khẩn cấp thượng lưu hai bờ sông Thác Ma và Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn góp phần xóa đói giảm nghèo và ứng phó biến đổi khí hậu huyện Triệu Phong do OFID tài trợ. Dự án Phát triển cấp nước Đông Hà và vùng phụ cận do ADB tài trợ (vốn vay giai đoạn I là 20,5 triệu USD). 2 dự án đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình nhà tài trợ phê duyệt với tổng vốn 3 triệu USD (Dự án Xây dựng hệ thống điện sinh hoạt các xã Cam Thủy, Cam Tuyền, Cam Hiếu huyện Cam Lộ và Dự án Đường nối cầu Đại Lộc với Quốc lộ 1A); kêu gọi Đại sứ quán Ai Len tại Hà Nội hỗ trợ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Ai Len xây dựng các dự án nhỏ đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 với tổng mức hỗ trợ 35 tỷ đồng. Nhiều dự án đã và đang được triển khai như: Dự án Cải thiện hạ tầng nông thôn bền vững các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị kêu gọi tài trợ của Ngân hàng Phát triển Châu Á (Tổng mức đầu tư là 176,7 triệu USD, trong đó hợp phần tỉnh Quảng Trị 45 triệu USD); Dự án Kết nối Hành lang Kinh tế Đông Tây với chuỗi các đô thị và Khu kinh tế động lực phía Đông Nam tỉnh Quảng Trị vận động vốn vay của JICA (TMĐT là 30,9 triệu); Dự án Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị vay vốn của Chính phủ Áo (Tổng mức đầu tư là 13,089 triệu EUR, tương đương 17,888 triệu USD; Dự án Nâng cấp cơ sở vật chất ngành y tế tỉnh Quảng Trị sử dụng vốn ODA của Italia (Tổng mức đầu tư là 3,5 triệu USD); Dự án Nâng cấp, cải tạo hệ thống lưới điện các xã Cam Thủy, Cam Hiếu, Cam Tuyền, huyện Cam Lộ đăng ký sử dụng nguồn vốn kết dư Chương trình tín dụng chuyên ngành JICA SPL VI (Tổng mức đầu tư là 0,95 triệu USD); Dự án Nâng cấp hệ thống hồ Triệu Thượng 1, 2 thuộc Dự án Quản lý thiên tai do WB tài trợ (Tổng mức đầu tư là 3,61 triệu USD)... Các dự án ODA đã góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cải thiện các điều kiện sinh kế, nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ địa phương và nâng cao đời sống cho nhân dân trên địa bàn toàn tỉnh.
Văn phòng UBND tỉnh cũng đã tham mưu UBND tỉnh trực tiếp làm việc với các Bộ ngành Trung ương và Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) kêu gọi Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ các dự án lớn cho tỉnh, trong đó Dự án Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và nâng cao năng lực đào tạo dạy nghề cho Trường Trung cấp nghề tỉnh Quảng Trị với tổng mức đầu tư 5,32 triệu USD (vốn viện trợ không hoàn lại của Hàn Quốc là 4,7 triệu USD); Dự án Tăng cường cơ sở vật chất và năng lực Trường Trung học Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị với tổng mức đầu tư là 2,247 triệu USD... Ngày 19/5/2012, nhân kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hàn Quốc (1992 - 2012), tại thành phố Đông Hà diễn ra lễ khởi công xây dựng Trường Trung cấp nghề Quảng Trị. Dịp này, chương trình liên hoan văn nghệ và trưng bày ảnh kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hàn Quốc đã được tổ chức; các quan chức cùng 66 tình nguyện viên Hàn Quốc đã tổ chức khám chữa bệnh cho hơn 400 lượt bệnh nhân; làm vệ sinh, sơn tường, vẽ tranh, biểu diễn võ Taewondo, giao lưu ẩm thực tại một số nơi trong tỉnh...
Nhờ triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong năm 2012 được ổn định, kinh tế tiếp tục duy trì nhịp độ tăng trưởng, một số chỉ tiêu đạt khá so với kế hoạch đề ra. Cụ thể: Tốc độ tăng trưởng GDP cả năm đạt 8%; Tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.468/1.465 tỷ đồng; trong đó thu nội địa: 875/885 tỷ đồng; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 593/580 tỷ đồng; Kim ngạch xuất khẩu đạt 95/67 triệu USD, vượt 42)% kế hoạch. Sản xuất nông nghiệp đạt mức tăng trưởng khá, sản lượng lương thực có hạt vượt 2,5 vạn tấn so với kế hoạch đề ra; Diện tích trồng mới cây công nghiệp dài ngày đạt: 1.832/1.740 ha, tăng 5,3% so với kế hoạch; Sản lượng thuỷ hải sản đạt 25.665/27.000 tấn, bằng 95% kế hoạch. Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập THCS đạt 100%. Tạo việc làm mới đạt 9.215 /9.500 lao động, bằng 97% kế hoạch. Tỷ lệ lao động qua đào tạo so với tổng số lao động ước đạt 37,2 %; trong đó đào tạo nghề 27,9 %; Mức giảm tỷ suất sinh ước đạt 0,6%o; Tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,5% (kế hoạch là giảm 2,5 - 3%); Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm còn 17% (KH là 18,5%).[1

1] Báo cáo số 324/BC-UBND ngày 28/11/2012 của UBND tỉnh.

Mô hình Trường Trung cấp nghề Quảng Trị do Chính phủ Hàn Quốc tài trợ.

Năm 2013, Văn phòng UBND tỉnh tiếp tục phối hợp với các Sở, ban, ngành và các địa phương thực hiện nhiệm vụ tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội để cùng với cả nước tập trung vượt qua khó khăn, phấn đấu đạt được những mục tiêu quan trọng về ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và bảp đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, đây là năm gặp rất nhiều khó khăn. Chính phủ tiếp tục chỉ đạo thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn dịnh kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh bằng các giải pháp như thắt chặt chi tiêu công; tái cơ cấu kinh tế; thực hiện giảm, giãn và gia hạn thuế… Trong tỉnh, việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt từ năm 2011 tiếp tục ảnh hưởng đến việc đầu tư, sản xuất, kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Nhiều doanh nghiệp thiếu vốn, sản xuất cầm chừng, thu ngân sách trên địa bàn sụt giảm đã tác động nhiều mặt đến đời sống xã hội. Hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn, vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước bị cắt giảm mạnh, các công trình xây dựng mới rất hạn chế; nhiều doanh nghiệp xây dựng phải hoạt động cầm chừng hoặc ngừng hoạt động... Bên cạnh đó, thời tiết có những diễn biến phức tạp, bão lụt gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, công trình kết cấu hạ tầng, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản của nhà nước và nhân dân. Trước tình hình đó, Văn phòng đã tham mưu UBND tỉnh đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành theo hướng linh hoạt, nhạy bén, quyết liệt, kịp thời và có hiệu quả, đặc biệt là những giải pháp chủ yếu về chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước; chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, thận trọng, hiệu quả, chính sách tài khoá chặt chẽ theo quy định của Trung ương, nhất là các quy định về lãi suất huy động, lãi suất cho vay, điều hành tỷ giá, thị trường ngoại hối; tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung xử lý các khoản nợ xấu và giảm tối đa nợ xấu phát sinh; Chỉ đạo tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ; về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; huy động nhiều dự án ODA có mức vốn lớn... Do đó, đã từng bước khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kiềm chế chỉ số tăng giá, cải thiện điều kiện sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ các doanh nghiệp đang gặp khó khăn từng bước phục hồi. Văn phòng cũng đã tham mưu cho UBND tỉnh kịp thời chỉ đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện nhiều biện pháp khẩn cấp trong sản xuất nông nghiệp như: ngăn mặn, giữ ngọt, tổ chức tưới hợp lý, chủ động xây dựng phương án chống hạn vụ Hè Thu 2013 đảm bảo đủ nước cho sản xuất. Tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo các ngành ưu tiên bố trí kinh phí thiết yếu hỗ trợ sản xuất kinh doanh, an sinh xã hội, phòng, chống dịch tai xanh, cúm gia cầm, diệt chuột, hỗ trợ cho chủ chăn nuôi có gia súc, gia cầm bị dịch phải tiêu huỷ...
Vào cuối tháng 9, đầu tháng 10, 2 trận bão số 10 và 11 xảy ra làm thiệt hại nặng nề; nhiều diện tích rừng trồng và cây công nghiệp dài ngày, nhất là cao su có trên 7.444 ha bị đổ, gãy. Nhiều công trình hạ tầng, kỹ thuật và hàng nghìn nhà dân bị sập đổ, tốc mái, hàng nghìn hecta diện tích gieo trồng, vật nuôi bị lũ cuốn trôi... Tổng thiệt hại gần 2.589 tỷ đồng. Trước, trong và sau các cơn bão, Văn phòng đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tham mưu UBND tỉnh đã thành lập các đoàn công tác do lãnh đạo UBND tỉnh làm trưởng đoàn cùng Ban chỉ huy PCLB và TKCN tỉnh đi kiểm tra, chỉ đạo công tác ứng phó với bão; nhanh chóng triển khai các công việc khẩn cấp để phòng, chống bão lũ phù hợp với đặc thù của từng địa phương, từng vùng trong tỉnh như: Giữ thông tin liên lạc thường xuyên và kêu gọi toàn bộ 2.508 tàu thuyền của tỉnh (với 6.405 người) đã vào các nơi neo đậu, trú ẩn an toàn; triển khai công tác chằng neo tàu thuyền an toàn tại các nơi neo đậu; đình chỉ các cuộc họp không cần thiết để tập trung cho công tác chỉ huy, chỉ đạo phòng, chống bão; kiểm tra các hồ đập để có phương án thật cụ thể về lực lượng, phương tiện, vật tư, vật liệu và phương án để ứng cứu; huy động các lực lượng sơ tán các hộ dân sinh sống ở vùng xung yếu đưa đến các nơi trú ẩn an toàn với tổng số là 13.121 hộ với 43.680 người của 100/141 xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Văn phòng cũng đã tham mưu tổ chức các đoàn công tác đi kiểm tra, chỉ đạo công tác khắc phục hậu quả sau bão, mưa lũ, kiểm tra an toàn các hồ đập và thăm hỏi, tặng quà động viên các gia đình có người bị thương, nhà sập, hư hỏng nặng, chóng huy động lực lượng vệ sinh môi trường, huy động 5.376 cán bộ, chiến sỹ là Bộ đội chủ lực, Dân quân tự vệ, Công an của các đơn vị trên địa bàn tham gia giúp các địa phương tu sửa nhà cửa cho nhân dân, bảo đảm nơi ăn, chốn ở cho những hộ gia đình có người bị thương, nhà sập, tốc mái, xiêu vẹo và người già neo đơn; Khôi phục khẩn cấp trường học, trạm xá và các công trình cơ sở hạ tầng khác, đồng thời đảm bảo công tác vệ sinh môi trường sau bão. Văn phòng UBND tỉnh đã phối hợp với Văn phòng UBMTTQVN tỉnh tiếp nhận tiếp nhận và phân bổ 17.917 triệu đồng do các tỉnh bạn ủng hộ để hỗ trợ nhân dân các địa phương khắc phục hậu quả bão lụt và đề nghị Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ khẩn cấp cho tỉnh Quảng Trị để tổ chức khắc phục khẩn cấp hậu quả bão lụt nhằm ổn định đời sống nhân dân... Nhờ vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, các địa phương đã sớm khắc phục hậu quả bão lụt, ổn định sản xuất và đời sống cho nhân dân.
Chăm lo đời sống cho người nghèo và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, Văn phòng đã tham mưu cứu trợ đột xuất 3.270 tấn gạo của Chính phủ hỗ trợ cứu trợ cho 25.479 hộ dân (85.085 nhân khẩu) trên địa bàn tỉnh trong dịp Tết Nguyên đán Quý Tỵ và thời kỳ giáp hạt năm 2013. Ngoài ra còn vận động các tổ chức, cá nhân hảo tâm thăm và tặng 12.587 suất quà cho hộ nghèo và đối tượng chính sách xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, với tổng trị giá trên 5,49 tỷ đồng dịp Tết Nguyên đán Quý Tỵ. Phối hợp với UBMTTQVN tỉnh, Hội Chữ Thập đỏ và các đoàn thể chính trị xã hội tổ chức cứu trợ cho nhân dân vùng bị thiên tai do bão số 10 và bão số 11 với số tiền 16,373 tỷ đồng.
Văn phòng cũng tham mưu UBND tỉnh triển khai xây dựng khu vực phòng thủ theo chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ; tổ chức thành công cuộc diễn tập khu vực phòng thủ 2 cấp tỉnh và ở huyện Đakrông, có sự tham gia của các lực lượng của Quân khu 4 và Bộ Quốc phòng. Tham mưu UBND tỉnh phối hợp tốt với 2 tỉnh Salavan và Savannakhet (Lào) hoàn thành dự án tăng dày mốc giới và bản vẽ hệ thống mốc giới.
Nhờ việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp của Chính phủ, sự đồng thuận, tinh thần quyết tâm của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và dân cư, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2013 tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng: Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế đạt 6,9%; thu ngân sách trên địa bàn 2.051 tỷ 505 triệu đồng, đạt 120% dự toán địa phương và bằng 132,5% cùng kỳ năm 2012; sản lượng lương thực quy thóc đạt đạt 23,4 vạn tấn; giá trị sản xuất công nghiệp đạt 5.514 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2012[1].[1] Báo cáo số 236/BC-UBND ngày 25/11/2013 của UBND tỉnh.

Khánh thành Khu du lịch Cửa Việt

Một số sự kiện nổi bật được tổ chức để lại ấn tượng tốt đẹp cho nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế trong năm 2013 như: Lễ mít tinh kỷ niệm 40 năm lãnh tụ Cuba Fidel Castro đến thăm vùng giải phóng Miền Nam Việt Nam (9/1973 - 9/2013); Liên hoan nghệ thuật Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (Tham dự liên hoan có gần 1.000 diễn viên đến từ 17 đoàn nghệ thuật, trong đó có 3 đoàn nghệ thuật quốc tế và 14 đơn vị nghệ thuật ca múa nhạc trong nước). Liên hoan là dịp để nghệ sĩ các nước giao lưu, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm trong lao động sáng tạo nghệ thuật, tiếp thu tinh hoa nghệ thuật, thắt chặt tình đoàn kết, hợp tác hữu nghị của cộng đồng khối ASEAN trong lĩnh vực văn hóa. Văn phòng đã tham mưu UBND tỉnh phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học “Quảng Trị - Đất dựng nghiệp của Chúa Nguyễn Hoàng.” nhân kỷ niệm 455 năm Chúa Nguyễn Hoàng dựng đô khởi nghiệp ở Quảng Trị (1558 - 2013) và 400 năm ngày mất của ông (1613 -2013).* Trong 2 năm 2014 - 2015, đội ngũ cán bộ, công chức Văn phòng UBND tỉnh có nhiều cố gắng vươn lên về mọi mặt, nhất là nâng cao chất lượng hiệu quả công việc; bám sát các Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh để có sự tham mưu đúng, kịp thời công tác chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh. Văn phòng đã tham mưu UBND tỉnh tổ chức nhiều cuộc họp với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương đề nghị xem xét nâng cấp cửa khẩu La Lay từ cửa khẩu quốc gia lên cửa khẩu quốc tế. Đề nghị Trung ương cho phép thành lập nhóm nghiên cứu chung giữa tỉnh Quảng Trị và Ban Kinh tế Trung ương nhằm nghiên cứu, tham mưu đề xuất Bộ Chính trị, Chính phủ ban hành các quy định, chính sách, cơ chế vượt trội giúp Quảng Trị trong phát triển kinh tế như: mở rộng hợp tác trên tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây; thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư Việt Nam - Lào, Việt Nam - Thái Lan, thu hút đầu tư vào khu Đông Nam tỉnh Quảng Trị, phát triển kinh tế biển… Ngày 28/5/2014, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 813/QĐ-TTg công nhận cửa khẩu La Lay, tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) - La Lay, tỉnh Sa La Van (Lào) nâng cấp từ cửa khẩu quốc gia lên cửa khẩu quốc tế. Văn phòng UBND tỉnh chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, chương trình, kế hoạch và nội dung để lãnh đạo 2 tỉnh tổ chức tốt buổi Lễ khai trương Cửa khẩu quốc tế La Lay (Quảng Trị) - La Lay (Salavan) vào ngày 25/6/2014. Cửa khẩu Quốc tế La Lay ra đời không chỉ tạo động lực và cơ hội hợp tác, hỗ trợ sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực phía Tây nói riêng và cả tỉnh Quảng Trị nói chung, mà còn có vị trí quan trọng trong việc mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa Việt Nam và các nước lân cận. Văn phòng đã tham mưu UBND tỉnh thành lập Trung tâm quản lý cửa khẩu trực thuộc BQL Khu kinh tế tỉnh Quảng Trị nhằm điều hành việc phối hợp thống nhất các hoạt động chuyên ngành của các lực lượng quản lý hành chính nhà nước, các lực lượng chức năng tại cửa khẩu quốc tế Lao Bảo và cửa khẩu quốc gia La Lay, giúp các hoạt động thương mại tại tại các cặp cửa khẩu giữa tỉnh Quảng Trị và các tỉnh phía bạn Lào đảm bảo thông thoáng, thuận lợi, nhanh gọn và hiệu quả.
Đã tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo quyết liệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận cao của nhân dân, từ đó tạo nên những kết quả đáng khích lệ. Công tác tham mưu, chỉ đạo của Văn phòng UBND tỉnh trong xây dựng nông thôn mới từng bước đi vào chiều sâu và đạt được nhiều kết quả. Văn phòng đã tham mưu đề xuất và trong 2 ngày 07 - 08/9/2014, đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam và đoàn công tác đã có chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Quảng Trị. Sau khi đến dâng hoa, dâng hương tưởng niệm các Anh hùng Liệt sĩ tại Bến thả hoa bờ Bắc sông Thạch Hãn, Chủ tịch nước và đoàn công tác đã làm việc với lãnh đạo tỉnh; thăm huyện đảo Cồn Cỏ; kiểm tra tiến độ xây dựng nông thôn mới tại xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tặng quà cho Đảng bộ và nhân dân xã Vĩnh Thạch, 10 hộ nông dân tiêu biểu và quà Trung thu cho các cháu thiếu nhi; tặng các hộ nông dân xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong 20 con bò giống; tặng quà cho cán bộ, nhân dân và học sinh xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong và phường An Đôn, thị xã Quảng Trị. Văn phòng UBND tỉnh cũng đã tham mưu UBND tỉnh trực tiếp làm việc với các Bộ ngành Trung ương và Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) kêu gọi Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ thực hiện Chương trình Hạnh phúc tỉnh Quảng Trị về hỗ trợ phát triển cộng đồng và xây dựng nông thôn mới tại 7 huyện gồm: Triệu Phong, Đakrông, Hướng Hóa, Gio Linh, Vĩnh Linh, Cam Lộ, Hải Lăng với tổng mức tài trợ 11,6 triệu USD. Văn phòng đã tham mưu cho lãnh đạo UBND tỉnh tích cực làm việc với các Bộ, Ngành Trung ương để xúc tiến các dự án đầu tư vào Khu Kinh tế Đông Nam Quảng Trị và Cảng biển Mỹ Thủy, Khu kinh - Thương mại Đặc biệt Lao Bảo và Khu công nghiệp Quán Ngang. Kêu gọi Dự án đầu tư cảng cạn, trung tâm dịch vụ hậu cần (logistic) tại Khu Kinh tế - Thương mại Đặc biệt Lao Bảo và Khu công nghiệp Quán Ngang theo hình thức PPP với tổng số vốn là 32 triệu USD (ADB). Tại Khu kinh tế Đông Nam, Khu trung tâm nhiệt điện đã được Bộ Công Thương phê duyệt quy hoạch địa điểm có diện tích 450 ha, gồm 2 nhà máy nhiệt điện có tổng công suất 2.400 MW. Năm 2014, Công ty Điện lực quốc tế Thái Lan (EGATi) đã được Chính phủ cho phép đầu tư nhà máy nhiệt điện Quảng Trị 1 (công suất 1.200 MW) tại khu vực này.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và lãnh đạo tỉnh thăm hỏi các cháu thiếu nhi xã Vĩnh Thạch, Vĩnh Linh

Công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh đã có nhiều đổi mới; kịp thời khắc phục, xử lý các khâu yếu trong tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành; thường xuyên cử các đoàn công tác làm việc tại cơ sở; tổ chức đối thoại với nhân dân trong thực hiện giải phóng mặt bằng một số dự án trọng điểm như nâng cấp Quốc lộ 1A. Chủ tịch UBND tỉnh đã tổ chức giao ban hàng tháng với thủ trưởng một số ngành liên quan về tình hình kinh tế - xã hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo, về trật tự an toàn xã hội, về công tác cải cách hành chính và những vấn đề bức xúc tại địa phương... Trên cơ sở đó, có các giải pháp phù hợp tình hình thực tế, bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành toàn diện và giải quyết có hiệu quả, kịp thời mọi công việc. Thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Văn phòng đã tham mưu giúp UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện nhiều hoạt động nhằm cải thiện môi trường đầu tư của tỉnh như: Tổ chức Hội thảo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; ban hành Kế hoạch cải thiện và cải thiện và nâng cao hiệu quả quản trị hành chính công cấp tỉnh (PAPI); ban hành Quyết định số 1383/QĐ-UBND ngày 07/7/2014 về “Chương trình hành động nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, giai đoạn 2014 - 2020”...
Văn phòng UBND tỉnh tiếp tục phối hợp với Văn phòng Tỉnh ủy bắt tay vào công việc chuẩn bị phục vụ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI; xây dựng dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XV phục vụ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.
Nhờ triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp của tỉnh, sự đồng thuận và tinh thần quyết tâm cao của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và dân cư, tình hình kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh của tỉnh trong năm 2014 tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng: Tốc độ tăng trưởng GDP cả năm đạt 6,7%; GDP bình quân đầu người đạt 29,7 triệu đồng; Tổng sản lượng lương thực có hạt ước đạt 27 vạn tấn, tăng 15,6% so với năm 2013; Tỷ lệ suy dinh trẻ em dưới 5 tuổi còn 15,5%; Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên toàn tỉnh 1,1%. Mức giảm tỷ lệ sinh ước trên 0,5%o (chỉ tiêu đề ra là 0,5%o); Tạo việc làm mới cho 10.500 lao động; Tỷ lệ lao động qua đào tạo là 41% (KH 41%); trong đó: tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề 31% (KH 31%); Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 11,76% năm 2013 xuống còn 9,42% năm 2014. Tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững. Nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương được triển khai kịp thời, đảm bảo đúng kế hoạch. Hệ thống chính trị được củng cố và ngày vững mạnh. [1]
Văn phòng cũng đã tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thi công để sớm đưa vào khai thác các dự án đầu tư sản xuất có quy mô lớn ở địa phương. Tập trung hoàn thành quy hoạch xây dựng và đổi mới cơ chế kêu gọi đầu tư vào khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị; tăng cường thu hút đầu tư sản xuất, kinh doanh tại các khu công nghiệp Nam Đông Hà, Quán Ngang, khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo, các cụm công nghiệp làng nghề, gắn với vấn đề xử lý môi trường. Tính chung trong 5 năm từ 2011 - 2015, tại các Khu công nghiệp và Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 31 dự án, với tổng mức đầu tư là 3.694 tỷ đồng. Qua 15 năm hoạt động, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo đã tạo dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng khá đồng bộ, thu hút một lượng lớn dự án và vốn đầu tư, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân trong vùng. Văn phòng đã tham mưu lãnh đạo UBND tỉnh làm việc với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhằm kiến nghị xử lý những vướng mắc trong thực hiện cơ chế, chính sách tại Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo nhằm tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh tại khu vực…
Tính đến năm 2015, tại các KCN, KKT của tỉnh đã có 102 dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư vào các khu kinh tế, khu công nghiệp với tổng vốn đầu tư đăng ký 8.079 tỷ đồng, trong đó: Tại KCN Nam Đông Hà có 30 dự án với tổng mức đầu tư 1.797 tỷ đồng; KCN Quán Ngang có 12 dự án với tổng mức đầu tư 2.626 tỷ đồng; Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo có 60 dự án với tổng mức đầu tư 3.655 tỷ đồng. Nhiều dự án đã hoàn thành và triển khai hoạt động tốt như: Dự án sản xuất tôm giống tại tỉnh Quảng Trị của Công ty TNHH Uni-President Việt Nam tại xã Trung Giang, huyện Gio Linh; các nhà máy sản xuất viên nén năng lượng, tinh bột sắn, sản xuất phân hữu cơ vi sinh, Nhà máy sản xuất phân bón NPK, Nhà máy MDF số 2 tại KCN Quán Ngang... Đặc biệt, Nhà máy bia Hà Nội Quảng Trị được khởi công xây dựng năm 2009 tại khu công nghiệp Quán Ngang (huyện Gio Linh) trên diện tích 78.800 m2 với tổng vốn đầu tư gần 294 tỷ đồng, công suất thiết kế của nhà máy là 25 triệu lít/ năm. Với dây chuyền công nghệ hiện đại, qua 6 năm thi công đến ngày 23/9/2014 nhà máy đã hoàn thành và đưa vào sản xuất thử mẻ bia đầu tiên và cho ra sản phẩm bia lon Hà Nội vào ngày 13/10/2014. Ngoài ra, các cụm công nghiệp đã thu hút 83 dự án với tổng mức đầu tư đăng ký đến đầu năm 2015 là 930,747 tỷ đồng; trong đó có 43 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, 14 dự án đang triển khai xây dựng, 26 dự án đã cấp phép đầu tư chuẩn bị triển khai xây dựng. Trong đó, một số cụm công nghiệp đã thu hút các nhà đầu tư như Cam Hiếu, Hải Thượng…

[1] Báo cáo số 212/BC-UBND ngày 25/11/2014.

Đồng chí Nguyễn Đức Chính, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu chỉ đạo tại Đại hội Đảng bộ Khối doanh nghiệp nhiệm kỳ 2015 - 2020.

Trong 5 năm từ 2011 - 2015, vượt qua những khó khăn, thách thức, Văn phòng UBND tỉnh đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng và từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) bình quân giai đoạn đạt 7,4%/năm cao hơn mức bình quân của cả nước (Tốc độ tăng của sản phẩm trong tỉnh (GDP): năm 2011 là 9,6%, 2012 là 7,4%, năm 2013 là 6,8%, năm 2014 6,7%, dự ước 2015 là trên 7%). GDP bình quân đầu người của tỉnh năm 2015 ước đạt 34 triệu đồng (1.619 USD), gấp 2,06 lần GDP bình quân đầu người năm 2010 và bằng 73,6% GDP bình quân đầu người của cả nước. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh năm 2015 ước đạt trên 2.450 tỷ đồng, tăng bình quân 16,6%/năm (Tổng thu NSNN trên địa bàn năm 2011 là 1491 tỷ đồng; 2012 là 1578 tỷ đồng, 2013 là 1972 tỷ đồng, năm 2014 là 2190 tỷ đồng). Số thu nội địa tăng liên tục qua các năm, từ 748 tỷ đồng năm 2010 lên 1570 tỷ đồng năm 2015.
- Sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp phát triển ổn định và khá toàn diện; nông nghiệp và kinh tế nông thôn đang có những chuyển biến tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa. Tốc độ tăng trưởng giá trị ngành nông, lâm, ngư nghiệp đạt 3,8%/năm, xấp xỉ đạt chỉ tiêu đề ra[1].

[1] Dự thảo báo cáo chính trị phục vụ Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XVI.

Khu công nghiệp Nam Đông Hà

- Sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển. Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành công nghiệp - xây dựng giai đoạn 2011 - 2015 đạt 8,8%/năm. Công tác quy hoạch ngành, sản phẩm chủ yếu có bước tiến bộ, tạo cơ sở cho việc bố trí sản xuất và đầu tư hợp lý, hiệu quả hơn. Văn phòng UBND tỉnh đã phối hợp với các Sở, ban, ngành tham mưu UBND tỉnh hoàn thành quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Trị đến năm 2020, định hướng đến năm 2025; Đề án củng cố, khôi phục và phát triển làng nghề, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2020; Quy hoạch điện gió đến năm 2020; Quy hoạch các dự án sử dụng khí đến năm 2020; điều chỉnh Quy hoạch khoảng sản tỉnh Quảng Trị đến năm 2020; Đề án phát triển gạch không nung đến 2020. Đề án phát triển ngành cơ khí đến năm 2020, có tính đến năm 2025; Đề án và Nghị quyết về chính sách khuyến công trên địa bàn tỉnh... Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 ước đạt 6.651 tỷ đồng, tăng 70% so với năm 2010, bình quân mỗi năm tăng 11,2%. Cơ cấu ngành công nghiệp tiếp tục có sự chuyển dịch, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo từ 80,3% năm 2011 tăng lên 83,8% năm 2015, công nghiệp khai thác khoáng sản giảm từ 8% năm 2011 xuống 7,4% năm 2015. Công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn bước đầu được quan tâm phát triển. Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển trên địa bàn. Giá trị sản xuất xây dựng bình quân 5 năm 2011 - 2015 tăng 5%/năm.
- Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh quyết định chọn 08 xã để tập trung nguồn lực xây dựng mô hình điểm; đồng thời chỉ đạo mỗi huyện chọn từ 2 - 3 xã để chỉ đạo điểm (toàn tỉnh là 22 xã). Công tác quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới được tích cực triển khai và hoàn thành trong năm 2011. Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương tiến hành xây dựng, triển khai thực hiện đề án nông thôn mới, tập trung vào công tác quy hoạch, huy động nguồn lực, vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới... Đến cuối năm 2014, có 100% xã đã hoàn thành phê duyệt quy hoạch và đề án nông thôn mới cấp xã. Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực và đã đạt những kết quả tích cực, đã huy động được sự tham gia của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở và các nguồn lực của nhân dân. Đến năm 2015, toàn tỉnh có 19 xã đạt tiêu chí quốc gia về nông thôn mới (hoàn thành 19/19 tiêu chí); cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch theo hướng bền vững. Trong đó có 4 xã về đích sớm hơn 1 năm so với kế hoạch đề ra.
- Trong điều kiện thời tiết có những diễn biến bất thường, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, giá đầu vào ở mức cao trong khi giá bán nông sản có thời điểm xuống thấp đã ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất ngành nông nghiệp, nhưng do có sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của các cấp, các ngành cùng với sự nỗ lực của bà con nông dân nên ngành nông nghiệp vẫn đảm bảo tăng trưởng, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an sinh xã hội. Điểm nổi bật trong thời kỳ này là Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo rà soát, điều chỉnh nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp tiếp tục chuyển đổi theo hướng đẩy mạnh khai thác tiềm năng lợi thế của từng vùng. Hình thành các vùng chuyên canh gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ. Cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị nông sản trên một đơn vị diện tích; tăng năng lực tưới tiêu chủ động; chú trọng phòng trừ dịch bệnh và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật; đẩy mạnh cơ giới hóa các khâu trong sản xuất. Sản lượng lương thực có hạt bình quân đạt gần 25 vạn tấn/năm. Diện tích cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, hồ tiêu ước đạt 27.180 ha, đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XV đã đề ra.
Chăn nuôi có bước chuyển biến từ hình thức nhỏ lẻ, phân tán sang hình thức trang trại, gia trại theo hướng tập trung, thâm canh bán công nghiệp và công nghiệp gắn với an toàn dịch bệnh và bảo đảm vệ sinh môi trường. Các chương trình cải tạo đàn bò, nạc hóa đàn lợn; phát triển gia cầm siêu trứng, siêu thịt; khôi phục và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm bản địa có giá trị cao đã mang lại hiệu quả bước đầu. Tỷ trọng giá trị ngành chăn nuôi trong tổng giá trị nông nghiệp tăng từ 20,4% năm 2010 lên 29,6% vào năm 2015.

Lãnh đạo UBND tỉnh đã trao bằng công nhận “Xã đạt chuẩn nông thôn mới” năm 2014 xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh.

Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng được chú trọng theo hướng xã hội hóa và nâng cao hiệu quả nghề rừng. Diện tích trồng rừng tập trung từ năm 2011 đến năm 2015 ước đạt 29.705 ha; tỷ lệ độ che phủ rừng tăng từ 46,7% năm 2010 lên 49,5% năm 2015, sản lượng khai thác gỗ rừng trồng hàng năm trên 350.000 m3. Phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững đem lại hiệu quả cao. Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2015 ước đạt 459 tỷ đồng, tăng bình quân 12,7%.
Ngành thuỷ sản từng bước được chú trọng khai thác và phát huy tiềm năng, lợi thế gắn với bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia, phát triển cả về nuôi trồng, đánh bắt, dịch vụ và hậu cần nghề cá. Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng bình quân 3.1%/năm. Năng lực và hiệu quả đánh bắt trung và xa bờ gắn với bảo vệ môi trường nguồn lợi thủy sản được nâng lên. Tổng sản lượng thủy hải sản từ 24.668 tấn năm 2010 tăng lên 32.100 tấn năm 2015. Giá trị sản xuất thủy sản (GSS2010) năm 2015 ước đạt 1.126,67 tỷ đồng, tăng bình quân 6,5%/năm.
Công tác thủy lợi phục vụ sản xuất và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu đã được đầu tư đúng mục tiêu và định hướng, góp phần thâm canh tăng năng suất cây trồng, chủ động phòng chống thiên thai, biến đổi khí hậu và xây dựng nông thôn mới. Hệ thống các công trình thủy lợi đã được quan tâm đầu tư nâng cấp như công trình: Nam Thạch Hãn, Sa Lung, Hồ chứa nước Đá Mài - Tân Kim, Hệ thống thủy lợi vùng trũng Hải Lăng, hồ Triệu Thượng 1 và 2... tiêu úng cho 7.500 ha; ngăn mặn, giữ ngọt, ngăn lũ tiểu mãn, lũ sớm cho hơn 13.500 ha.
Lĩnh vực thương mại - dịch vụ phát triển ổn định. Tốc độ tăng trưởng khu vực thương mại - dịch vụ bình quân ước đạt 8,4%/năm. Tổng mức bán lẽ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng bình quân 18,9%/năm. Trong 5 năm 2011 - 2015, đã hoàn thành đưa vào sử dụng 14 chợ: thị trấn Ái Tử, Phương Lan, Thuận, Ngã Tư Sòng... Nâng tổng số chợ của toàn tỉnh lên 81 chợ theo quy hoạch (5 chợ hạng 1, 6 chợ hạng 2 và 70 chợ hạng 3, gồm 33 chợ kiên cố, 17 chợ bán kiên cố và 31 chợ tạm); Các cơ sở kinh doanh, siêu thị, trung tâm thương mại ở các khu đô thị được đầu tư nâng cấp và đi vào hoạt động cơ bản đáp ứng nhu cầu kinh doanh, trao đổi hàng hóa và mua sắm của nhân dân. Đã đầu tư hoàn thành đưa vào sử dụng Kho cảng xăng dầu Cửa Việt, công suất thiết kế giai đoạn I là 45.000 m3 và 23 cửa hàng xăng dầu, nâng tổng số cửa hàng bán lẻ xăng dầu trên địa bàn toàn tỉnh là 103. Lưu thông hàng hóa thông suốt, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ tiếp tục được đầu tư.
Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” được chú trọng triển khai đạt kết quả bước đầu. Các dịch vụ bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật, vận tải, kho bãi, dịch vụ quá cảnh hải quan, chăm sóc sức khoẻ, tư vấn, bảo hiểm,… được chú trọng phát triển.
Đã hình thành được một số sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh có thương hiệu như: du lịch các di tích lịch sử cách mạng, du lịch hoài niệm, hồi tưởng, tâm linh,... Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực du lịch tiếp tục được quan tâm thực hiện. Tổng lượng khách du lịch tăng dần qua các năm; doanh thu du lịch tăng bình quân 11,5%/năm.
Hoạt động xuất nhập khẩu có bước phát triển, thị trường xuất khẩu được củng cố và mở rộng. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 63,4 triệu USD năm 2010 lên 210 triệu USD vào năm 2015, tăng bình quân 27%/năm (Chỉ tiêu Đại hội XV tăng 18,6%).
Cơ cấu các khu vực kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 28,9% năm 2010 xuống 22,5% năm 2015; tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng từ 35,5% năm 2010 lên 37,9% năm 2015 và tỷ trọng thương mại - dịch vụ tăng từ 35,6% năm 2010 lên 39,6% năm 2015. Trong nội bộ các khu vực kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực.
 Cơ cấu kinh tế vùng chuyển biến tích cực. Trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, đang hình thành, phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, vùng động lực, vùng sản xuất tập trung, các khu, cụm công nghiệp, làng nghề. Các chính sách, chương trình đầu tư xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội miền núi, miền biển, vùng khó khăn đã phát huy tác dụng.
Các loại hình doanh nghiệp phát triển cả về quy mô, số lượng, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, đóng góp gần 40% GDP. Các doanh nghiệp Nhà nước thuộc tỉnh tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Mặc dù các doanh nghiệp nhà nước giảm về số lượng nhưng đóng góp gần 24% tổng sản phẩm của toàn tỉnh.
Kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển, giải quyết việc làm cho nhiều lao động trên địa bàn. Trong 5 năm 2011 - 2015, toàn tỉnh thành lập mới trên 1.200 doanh nghiệp (chỉ tiêu là 1.000 - 1.200 doanh nghiệp), đưa tổng số doanh nghiệp toàn tỉnh lên trên 2.500 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký trên 16.000 tỷ đồng; giải quyết việc làm cho gần 33.000 lao động. Có trên 37.000 hộ kinh doanh cá thể (tăng 10,4% so với năm 2010), sử dụng gần 54.000 lao động. Kinh tế tập thể, hợp tác xã có bước chuyển biến, đa số các hợp tác xã đã chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012, trên địa bàn toàn tỉnh có 341 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Các loại hình tổ hợp tác phát triển mạnh. Đến năm 2015, toàn tỉnh có khoảng 7.150 tổ hợp tác với trên 58.265 thành viên. Giá trị tổng sản phẩm do thành phần kinh tế ngoài nhà nước đóng góp trên 75% tổng giá trị sản phẩm của toàn tỉnh.
Cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế có bước dịch chuyển. Năm 2010, tỷ trọng lao động trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng là 15,2%, thương mại - dịch vụ là 23,1 %, nông, lâm, ngư nghiệp là 61,7 %; đến năm 2015 tỷ lệ tương ứng là 15,7%, 28,8%, 55,5%.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh được mở rộng, từng bước hiện đại hóa công nghệ quản lý, triển khai thực hiện nghiêm túc chính sách tiền tệ của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Trung ương, vừa phục vụ tốt nhu cầu hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân. Tổng dư nợ cho vay tăng bình quân 14,6%/năm.
Nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tiếp tục tăng, kết cấu hạ tầng đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5 năm 2011 - 2015 ước đạt 41.258 tỷ đồng, gấp 2,35 lần so với 5 năm 2006 - 2010 và bằng 91,7% chỉ tiêu Nghị quyết XV đề ra; trong đó vốn Ngân sách nhà nước 12.835 tỷ đồng, có xu hướng giảm chiếm 31,1%; vốn ngoài nhà nước tăng mạnh, bình quân đạt 27,3%/năm. Công tác quản lý vốn đầu tư được tăng cường, nguồn vốn đầu tư từng bước được triển khai thực hiện theo đúng quy hoạch. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước được thực hiện công khai, minh bạch, cơ bản khắc phục được tình trạng đầu tư dàn trải; hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngày càng được nâng lên.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển khá toàn diện trên tất cả các vùng: đồng bằng, ven biển, miền núi. Nhiều công trình giao thông đã được đầu tư xây dựng hoàn thành và đưa vào sử dụng như: Đường vào khu tái định cư Hoong Cóc, Đường vào xã Hướng Sơn, Đường Nguyễn Thị Lý, Đường vào xã Vĩnh Ô đoạn từ ngã tư Bến Quan đến xã Vĩnh Hà, Đường Đại - Độ - Thuận - Phước, Đường vào xã A Ngo, Đường tránh lũ cứu hộ, cứu nạn phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng vùng ven biển phía Nam Quảng Trị, Cầu Đại Lộc, cầu Vĩnh Phước… Một số công trình giao thông quan trọng đang được tiếp tục đầu tư xây dựng như: Nâng cấp Quốc lộ 1A, cầu sông Hiếu và đường 2 đầu cầu (tổng mức đầu tư 588,8 tỷ đồng), cầu Cam Hiếu (tổng mức đầu tư trên 284 tỷ đồng), cầu An Mô, đường cơ động ven biển Hải An - Hải Khê (tổng mức đầu tư 102,690 tỷ đồng), đường Tân Long - Lìa, Đường cứu hộ, cứu nạn phát triển kinh tế Tây Triệu Phong - Nam Cam Lộ; lập dự án đề nghị Chính phủ nâng cấp Quốc lộ 15D (tổng mức đầu tư 1.382 tỷ đồng) và dự án đầu tư xây dựng Cầu Thành cổ và đường tránh thị xã Quảng Tri (tổng mức đầu tư 764 tỷ đồng)... Tính chung, trong giai đoạn này đã xây dựng mới và nâng cấp hơn 1.000 km đường giao thông nông thôn, tỷ lệ đường giao thông nông thôn đã được kiên cố hóa chiếm 30,8% tổng chiều dài đường giao thông nông thôn toàn tỉnh.
Hệ thống các công trình thuỷ lợi được chú trọng đầu tư nâng cấp và xây dựng mới. Đã hoàn thành và đưa vào sử dụng như hồ chứa nước trên đảo Cồn Cỏ, hồ chứa nước Đá Mài - Tân Kim, trong đó hồ chứa nước Đá Mài - Tân Kim với dung tích chứa 542.000 m3 nước, cấp nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp cho 1.310 héc-ta đất canh tác, trong đó có 860 héc-ta lúa 2 vụ và 450 héc-ta đất trồng màu của các xã: Cam Tuyền, Cam Thủy, Cam Hiếu, Cam Thanh thuộc huyện Cam Lộ và một phần diện tích đất sản xuất nông nghiệp của phường Đông Thanh thuộc thành phố Đông Hà được hoàn thành trong năm 2012. Đã nâng cấp, xây mới 140,3 km kênh loại 2 và 231,3 km kênh loại 3, đảm bảo tưới, tiêu chủ động cho trên 85% diện tích gieo cấy lúa 2 vụ. Hệ thống cấp nước sinh hoạt, xử lý nước thải, chất thải rắn ở các khu đô thị, vùng nông thôn từng bước được đầu tư, nhiệm kỳ qua đã thu hút được nhiều dự án triển khai thực hiện; tỷ lệ dân thành thị sử dụng nước sạch đạt 86%; tỷ lệ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 87% vào năm 2015.
Đã hoàn thành, đưa vào sử dụng một số trạm biến áp 220KV, 110KV-25MVA. Nâng công suất Trạm biến áp Lao Bảo từ 110KV -16MW lên 110KV - 25MW. Mạng lưới điện trung, hạ áp, nhất là lưới điện nông thôn được chú trọng nâng cấp, xây dựng mới. Đến cuối năm 2015, 100% thôn, bản có điện lưới quốc gia, là một trong những tỉnh sớm hoàn thành mục tiêu 100% thôn, bản có lưới điện quốc gia khu vực miền Trung.
Hạ tầng bưu chính viễn thông được đầu tư phát triển mạnh. Có trên 90% xã, phường, thị trấn có điểm bưu điện - văn hóa xã. Hạ tầng mạng điện thoại cố định, internet và di động đã phủ khắp trong toàn tỉnh với 100% xã đã có điện thoại, sóng di động và mạng internet.
Cổng thông tin điện tử của tỉnh (www.quangtri.gov.vn) đảm bảo cung cấp 100% các dịch vụ hành chính công trực tuyến, trên 50% số dịch vụ hành chính công đạt mức độ 3 và 4 đáp ứng và phục vụ yêu cầu cải cách hành chính ở các Sở, ngành, địa phương. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho công tác phát thanh truyền hình được quan tâm đầu tư; 100% xã, phường, thị trấn được phủ sóng phát thanh, truyền hình.
Hệ thống trường học, bệnh viện, trạm y tế, công trình phục vụ hoạt động văn hoá, thể thao... tiếp tục được đầu tư đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân. Hạ tầng đô thị được quan tâm đầu tư, đã cơ bản hình thành được 2 chuỗi đô thị theo các trục Bắc - Nam và Đông - Tây với 13 đô thị, tỷ lệ dân số thành thị chiếm 29,4% dân số toàn tỉnh. Hạ tầng du lịch được quan tâm đầu tư phát triển, nhất là Khu dịch vụ du lịch Cửa Việt - Cửa Tùng, Đông Hà, Khe Sanh - Lao Bảo.
Chất lượng nền kinh tế dần được cải thiện, năng suất lao động xã hội năm 2011 từ 40 triệu đồng/lao động tăng lên 57,3 triệu đồng/lao động năm 2015; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; thu nhập bình quân đầu người tăng khá; nhiều chỉ tiêu về lĩnh vực văn hóa - xã hội đạt và vượt kế hoạch đề ra... đời sống nhân dân trong tỉnh cơ bản ổn định và có mặt phát triển khá. Đây là các nhân tố quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển trong những năm tiếp theo. Hàm lượng khoa học công nghệ trong các sản phẩm đã được gia tăng, một số sản phẩm chủ lực, sản phẩm truyền thống của tỉnh được xây dựng, phát triển thương hiệu và chỉ dẫn địa lý. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của tỉnh năm 2013 tuy sụt giảm so với năm 2011 nhưng một số chỉ số thành phần như chỉ số về hỗ trợ doanh nghiệp, chỉ số về lao động, chỉ số về bình đẳng trong kinh doanh… đã được cải thiện.
Việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, thể thao, thông tin, truyền thông gắn với mục tiêu xây dựng con người phát triển toàn diện đã được chú trọng, góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần và thể chất của nhân dân. Nhiều hoạt động lễ hội của Quảng Trị đã và đang hình thành, tạo nét đặc trưng riêng như Lễ hội Thống nhất Non sông, Lễ hội Tri ân tháng 7, Lễ hội Hoa đăng trên sông Thạch Hãn, Lễ hội Văn hoá - Du lịch Nhịp cầu Xuyên Á, Lễ Kiệu La Vang, Giỗ Tổ Đình Sắc Tứ, trong đó có những lễ hội như: Lễ hội Thống nhất Non sông (30/4), lễ hội Nhịp cầu Xuyên Á, lễ hội Hoa đăng trên sông Thạch Hãn... đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng đồng bào, chiến sỹ cả nước và bạn bè quốc tế. Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục - thể thao quần chúng phát triển sâu rộng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của nhân dân. Nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang có những chuyển biến, được nhân dân đồng tình hưởng ứng. 

Hoạt động thể dục - thể thao diễn ra sôi nổi

Hệ thống thiết chế văn hoá, thể thao từ cấp tỉnh đến cơ sở đã được quan tâm đầu tư xây dựng, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển. Một số công trình đầu tư xây dựng mới như: Quảng trường và Nhà Văn hoá Trung tâm tỉnh, Nhà thi đấu đa năng, Thư viện tỉnh... Nhà tập luyện và thi đấu thể thao Vĩnh Linh, thư viện và sân vận động thị xã Quảng Trị, nhà Thiếu nhi huyện Cam Lộ. Trong 5 năm từ 2011 - 2015 đã đầu tư xây dựng mới 32 cơ sở văn hoá thể thao cấp xã, phường, thị trấn, 110 cơ sở văn hoá làng bản khu phố. Đến nay toàn tỉnh xây dựng được 77 nhà văn hóa cấp xã, đạt tỷ lệ 54,6%; 909 nhà văn hóa cấp thôn, đạt tỷ lệ 85,8%.. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản vật thể, phi vật thể được chú trọng. Các di tích quan trọng của tỉnh tiếp tục được đầu tư tôn tạo, khai thác và phát huy giá trị. Đặc biệt, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh vận động cán bộ, công chức toàn ngành Tài chính cả nước ủng hộ công đức để xây dựng, nâng cấp NTLS Quốc gia Đường 9 khang trang hơn, với tổng kinh phí đầu tư trên 80 tỷ đồng được hoàn thành và tổ chức khánh thành nhân dịp 27/7/2014.
Hệ thống thông tin, truyền thông đã phát huy được hiệu quả trong công tác tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu về thông tin của người dân. Quy mô, chất lượng các loại hình báo chí được nâng lên, chương trình nội dung phong phú hơn, phản ánh kịp thời, đúng định hướng của Đảng về nhiệm vụ thông tin, truyền thông trong tình hình mới.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Quân Chính và các ngành thăm các hộ dân sinh sống tại huyện đảo Trường Sa.

Sự nghiệp giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển. Chất lượng và hiệu quả giáo dục ngày càng nâng lên. Quy mô mạng lưới trường lớp cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động dạy và học được quan tâm đầu tư. Công tác chuyển đổi các loại hình trường lớp được thực hiện tốt.
Công tác phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục THCS được duy trì và củng cố khá vững chắc. Năm 2013, Quảng Trị được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, vượt trước 2 năm so với kế hoạch toàn quốc. Toàn tỉnh có 28,4% (40/141 xã, phường, thị trấn) đạt chuẩn phổ cập giáo dục bậc trung học. Tính đến năm 2015 có 100% giáo viên, cán bộ quản lý đạt chuẩn, trong đó có 63% trên chuẩn.
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp đã và đang được hình thành và phát triển. Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được duy trì có hiệu quả.
Chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân được nâng lên; công tác dân số, gia đình và trẻ em đạt nhiều kết quả: Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được triển khai đồng bộ và đạt kết quả khá. Đội ngũ cán bộ y tế từng bước nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Đến năm 2015, Số bác sĩ/10.000 dân đạt 9 bác sỹ. Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ đạt 85%; 100% thôn bản có nhân viên y tế cộng đồng và nữ hộ sinh. Cơ sở vật chất phục vụ công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân được củng cố và phát triển, nhiều công trình quan trọng được đầu tư xây dựng Bệnh viện đa khoa tỉnh xây dựng mới với quy mô 500 giường bệnh dự kiến cuối năm 2015 đưa vào sử dụng; đồng thời bổ sung quy hoạch nâng quy mô lên 700 giường bệnh hoàn thành trước năm 2020; Bệnh viện chuyên khoa Lao và Bệnh phổi và Phòng quản lý sức khỏe cán bộ tỉnh đã hoàn thành; Dự án mở rộng, nâng cấp bệnh viện Điều dưỡng và phục hồi chức năng Cửa Tùng đang đẩy nhanh tiến độ, có 8 bệnh viện huyện quy mô từ 70 - 100 giường bệnh; 2 bệnh viện khu vực Triệu Hải và Vĩnh Linh có quy mô 200 giường bệnh.. Nhiều kỹ thuật mới, hiện đại về khám, chữa bệnh được triển khai ứng dụng. Năm 2014, Trường Trung cấp y tế đã được nâng cấp thành Trường Cao đẳng y tế. Đến năm 2015, toàn tỉnh có 1.673 giường bệnh, đạt tỷ lệ 30 giường/1 vạn dân, có trên 70% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Công tác y tế dự phòng được triển khai thực hiện tốt, kịp thời kiểm soát và khống chế dịch bệnh. Chăm sóc sức khoẻ ban đầu, sức khoẻ sinh sản có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 19,5% năm 2010 xuống 15% năm 2015. Công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình được đẩy mạnh, mô hình làng không có người sinh con thứ 3 trở lên tiếp tục được triển khai nhân rộng. Các lĩnh vực bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, người cao tuổi… được quan tâm thực hiện. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đạt nhiều kết quả, nhất là đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Công tác giảm nghèo được chú trọng thực hiện có hiệu quả, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm. Đã triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ cho người nghèo như: đầu tư hạ tầng thiết yếu; nước sạch; nhà ở, đất sản xuất, bảo hiểm y tế, học phí; vay vốn phát triển sản xuất… Thu hút nhiều nguồn lực và thực hiện nhiều giải pháp để giảm nghèo một cách bền vững, đặc biệt là vùng miền núi và vùng biển bãi ngang. Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh xây dựng Đề án giảm nghèo bền vững đối với 9 xã và 23 thôn, bản vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 50%; được HĐND tỉnh thông qua tại Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐND ngày 13/4/2012; đây là một chính sách lớn của tỉnh nhằm mục đích nâng cao đời sống, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội cho nhân dân ở các vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Trong 3 năm triển khai thực hiện, đời sống nhân dân các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn đã có những bước chuyển biến tích cực, tỷ lệ giảm nghèo ở vùng thuộc đề án nhanh hơn so với những năm trước.

Khánh thành công trình nâng cấp Nghĩa trang Liệt sỹ Đường 9.

Thực hiện chính sách hỗ trợ xây dựng nhà ở theo Quyết định số 167/2008/ QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ, Văn phòng đã tham mưu phân bổ kinh phí để xây dựng 4.566 nhà ở cho đối tượng nghèo, với với tổng kinh phí phân bổ là 35.293 triệu đồng. Chú trọng phát triển các mô hình sản xuất gắn với mục tiêu giảm nghèo và giải quyết việc làm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 19,7% đầu năm 2011 giảm xuống còn 9,42% cuối năm 2014 và dự kiến xuống 6,76% vào cuối năm 2015, bình quân mỗi năm giảm 2,58%; riêng huyện Đakrông, giảm bình quân hàng năm 5,7%.
Quan tâm chăm lo và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với người có công và đối tượng chính sách xã hội. Phong trào “đền ơn đáp nghĩa” huy động được nhiều nguồn vốn để đầu tư xây dựng, tôn tạo, nâng cấp các nghĩa trang liệt sỹ, các công trình tri ân và chăm sóc người có công với nước. Thực hiện Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở; Văn phòng đã tham mưu UBND tỉnh triển khai hỗ trợ kịp thời cho 3.397 người có công với cách mạng về nhà ở, trong đó có 1.050 đối tượng được hỗ trợ xây mới về nhà ở (mức 40 triệu đồng/nhà) và 2.347 đối tượng được hỗ trợ sửa chữa nhà ở (mức 20 triệu đồng/nhà). Tổng kinh phí thực hiện hỗ trợ là 88.940 triệu đồng. Việc triển khai chính sách hỗ trợ người có công về nhà ở có ý nghĩa sâu sắc, mang lại niềm vui cho những gia đình được thụ hưởng; kịp thời chăm lo đời sống người có công, tháo gỡ khó khăn về nhà ở. Hoạt động nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ người nghèo, người tàn tật, cô đơn không nơi nương tựa đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng và đạt nhiều kết quả.
Công tác dạy nghề có chuyển biến tích cực, từng bước gắn với sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập và xoá đói giảm nghèo. Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn được triển khai rộng rãi trong toàn tỉnh, góp phần nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động, nhất là ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 33,05% năm 2010 tăng lên 43,1% năm 2015; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 24,42% năm 2010 lên 33% năm 2015. Trong 5 năm 2011 - 2015, toàn tỉnh có trên 48.900 lao động được tạo việc làm mới, vượt 3% so với chỉ tiêu Đại hội XV đề ra và tăng 15,7% so với 5 năm 2006 - 2010.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, lãnh đạo tỉnh Quảng Trị dâng hoa, dâng hương viếng các anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang Liệt sỹ Quốc gia Đường 9

Hoạt động khoa học và công nghệ được đổi mới theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, bám sát nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhiều đề tài, dự án khoa học công nghệ được ứng dụng có hiệu quả tại địa phương như: “Cánh đồng 50 triệu/ha”, “Nhân rộng mô hình canh tác trong nông nghiệp có giá trị cao, chất lượng cao và hiệu quả kinh tế cao”, “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô và giâm hom cây lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị”, “Xây dựng mô hình sản xuất, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ nấm ăn, nấm dược liệu tại tỉnh Quảng Trị”, “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sản xuất giống hoa và hoa thương phẩm chất lượng cao tại tỉnh Quảng Trị”.... Chương trình phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trên địa bàn tỉnh Quảng Trị được chú trọng bước đầu phát huy hiệu quả. Hoạt động khoa học công nghệ đã từng bước gắn với sản xuất và hướng đến bảo vệ môi trường. Việc xây dựng thương hiệu, xác lập chỉ dẫn địa lý cho một số hàng hóa, sản phẩm của tỉnh đã quan tâm thực hiện.
Công tác điều tra cơ bản về tài nguyên, khoáng sản phục vụ việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản có bước tiến bộ. Hoàn thành quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 - 2015 của tỉnh. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đạt trên 92%; công tác đo đạc lập bản đồ địa chính, cập nhật hồ sơ địa chính, chỉnh lý biến động về đất đai đã được triển khai tích cực. Công tác quản lý đất đai đã từng bước đi vào nề nếp. Công tác bảo vệ môi trường được chú trọng; quản lý tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản đã có chuyển biến tích cực, quản lý biển, đảo, khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu bước đầu đạt được kết quả tốt.
Đã quy hoạch và đầu tư xây dựng một số công trình phòng, tránh thiên tai, biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Xây dựng kế hoạch hành động thực hiện chiến lược khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Quốc phòng - an ninh được tăng cường, chính trị ổn định, trật tự án toàn xã hội đảm bảo. Công tác quân sự - quốc phòng được các cấp, các ngành quan tâm, tập trung chỉ đạo đạt kết quả cao với nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, cụm an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu và an ninh trật tự. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên được chú trọng. 

Cầu Cửa Tùng

Hàng năm, đã chỉ đạo tổ chức tốt các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ; hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân, đảm bảo số lượng, nâng cao chất lượng. Lực lượng vũ trang địa phương thường xuyên được củng cố, kiện toàn, không ngừng nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu; thực hiện các chính sách hậu phương quân đội, tham gia tích cực, có hiệu quả vào công tác phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai.
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” và phong trào “Quần chúng tham gia tự quản đường biên, cột mốc và bảo vệ an ninh trật tự thôn, bản” thực hiện đạt kết quả tốt. Các lực lượng vũ trang trên địa bàn đã phối hợp nắm chắc tình hình, âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động phá hoại nội bộ, tác động chuyển hóa, âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, các hoạt động lợi dụng tự do dân chủ, tôn giáo, nhân quyền. Đã huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và của toàn dân tham gia tích cực vào các Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội; bảo vệ an toàn tuyệt đối các hoạt động chính trị - xã hội, các sự kiện lớn, các ngày Lễ, Tết trên địa bàn. Công tác phòng chống cháy, nổ, bảo vệ các mục tiêu; công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông có nhiều tiến bộ.
Hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh, chủ động mở rộng quan hệ hợp tác trong khu vực và quốc tế. Quán triệt chủ trương của Đảng về đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; kết hợp chặt chẽ công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao quốc phòng và an ninh, giữa chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại; Văn phòng đã tham mưu cho lãnh đạo tỉnh tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước và tổ chức quốc tế. Nhờ đó, quan hệ hợp tác hữu nghị giữa tỉnh Quảng Trị với các tổ chức quốc tế tiếp tục được tăng cường. Hiện có trên 20 đối tác là các tổ chức quốc tế, Chính phủ nước ngoài và 36 tổ chức phi Chính phủ đã và đang hỗ trợ tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả chiến tranh. Tổng vốn ODA thực hiện trong giai đoạn 2011-2015 là 207,860 triệu USD; số lượng dự án ODA thực hiện gấp 1,17 lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Tổng vốn huy động từ nguồn vốn NGOs đạt khoảng 18,81 triệu USD. Các dự án đã góp phần đáng kể vào xóa đói giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, giảm nhẹ thiên tai, khắc phục hậu quả chiến tranh.
Cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá với các nước trong khu vực đặc, biệt là các nước trên tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây; Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu giúp UBND tỉnh tổ chức nhiều hoạt động tiếp tục củng cố và tăng cường mối quan hệ hợp tác hữu nghị đặc biệt với các tỉnh Salavan và Savannakhet (Lào), tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, ban, ngành, địa phương xúc tiến các quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong giữ vững quốc phòng - an ninh, hợp tác toàn diện về giáo dục- đào tạo, thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ, y tế, giao thông vận tải, đối ngoại... góp phần vào sự phát triển KT- XH chung của 3 tỉnh và giữ vững hòa bình, ổn định vùng biên giới. Hoàn thành công tác tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào trên tuyến biên giới của tỉnh, trong đó đã thực hiện cắm 31/35 vị trí cột mốc trên toàn tuyến Quảng Trị - Savanakhet và 31/33 vị trí cột mốc trên toàn tuyến Quảng Trị - Sa La Van; thực hiện hiệu quả phong trào ”Toàn dân tự quản đường biên cột mốc, xây dựng biên giới Việt - Lào hòa bình, hữu nghị”...
Nhiều chủ trương, chính sách vận động ngư dân bám biển, cùng với phong trào vì biển đảo quê hương được phát động rộng rãi, khơi dậy và phát huy sức mạnh và tinh thần đoàn kết của toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các chính sách hỗ trợ ngư dân vay vốn mua sắm, nâng cấp, cải hoán tàu thuyền, ngư lưới cụ phù hợp với một số nghề đánh bắt mới...được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, đem lại hiệu quả thiết thực.
Bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu, giúp UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện thành công các sự kiện quan trọng, trong đó có những sự kiện mang tầm quốc gia, quốc tế như: Lễ hội “Thống nhất non sông” nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam 30/4/1975 - 30/4/2015, Lễ hội Văn hóa - Du lịch “Nhịp cầu xuyên Á”; tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm 50 năm chiến đấu Việt - Lào; kỷ niệm 20 năm quan hệ ngoại giao Việt - Hàn; tổ chức lễ mít tinh kỷ niệm 40 năm lãnh tụ Cuba Fidel Castro đến thăm vùng giải phóng Miền Nam Việt Nam (9/1973 - 9/2013)… Tổ chức nhiều hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao kỷ niệm các ngày lễ lớn, lễ hội và các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa của quê hương, đất nước được tổ chức trang trọng, tạo được ấn tượng sâu sắc và tốt đẹp như: Kỷ niện 65 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ, kỷ niệm 40 năm sự kiện 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị, kỷ niệm 55 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh tại Nghĩa trang Liệt sỹ Trường Sơn; Lễ kiệu La Vang; Lễ hội đâm trâu truyền thống ở xã A Ngo (huyện Đakrông); Lễ hội chợ Đình Bích La… Các hoạt động văn hóa văn nghệ diễn ra sôi nổi như Liên hoan văn nghệ các làng văn hóa; Liên hoan các nhóm tuyên truyền ca khúc cách mạng tỉnh Quảng Trị lần thứ IV - 2014...
Các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn tiếp tục được đầu tư bảo tồn, tôn tạo và khai thác hiệu quả. Thực hiện chủ trương xã hội hoá, ngoài nguồn ngân sách, Văn phòng UBND tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh huy động được hàng trăm tỷ đồng phục vụ trùng tu tôn tạo các cơ sở di tích, các công trình đền ơn đáp nghĩa, tiêu biểu như: Nghĩa trang liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sỹ Quốc gia Đường 9, Quảng trường sân hành lễ, Bến thả hoa sông Thạch Hãn, Tháp chuông Thành cổ, Tượng đài bờ bắc sông Thạch Hãn, Đền tưởng niệm Bến Tắt và các cơ sở dịch vụ du lịch...

Lãnh đạo 3 tỉnh Quảng Trị (CHXHCN Việt Nam) – Savannakhet (CHDCND Lào) – Mukdahan (Vương quốc Thái Lan) ký kết Biên bản phát triển hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đầu tư và du lịch.

 

Đặc biệt, Văn phòng đã tham mưu UBND tỉnh làm thủ tục đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt đối với Di tích Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải, Di tích Thành Cổ Quảng Trị. Lễ đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt đối với các di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng Trị được tổ chức vào ngày 30/4/2014 nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước 30/4 (1975 - 2014).
Công tác cải cách hành chính được triển khai đồng bộ từ cải cách thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cải cách tài chính công... chỉ số quản trị và hành chính công của tỉnh (PAPI) liên tục được cải thiện. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh, gắn với rà soát đơn giản hóa thủ tục hành chính hiện hành loại bỏ những thủ tục không cần thiết. Đến cuối năm 2014, toàn tỉnh có 16/20 sở, ban, ngành, 9/10 huyện, thành phố, thị xã, 141/141 xã, phường, thị trấn triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Mức độ hài lòng của người dân đối với các dịch vụ công và hành chính công được nâng lên.
Văn phòng UBND tỉnh đã tích cực tham mưu công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, xử lý kịp thời các kiến nghị, phản ánh của nhân dân, đảm bảo những vấn đề gì có lợi cho dân, đúng với quy định của pháp luật, đúng chính sách của Nhà nước đều được vận dụng thực hiện để bảo vệ quyền lợi của người dân. Năm 2012, được UBND tỉnh bố trí vốn đầu tư công trình Trụ sở tiếp công dân tỉnh trên khuôn viên rộng 1.987 m2, diện tích xây dựng 833 m2; Văn phòng UBND tỉnh đã sớm triển khai công tác đầu tư xây dựng; đến cuối năm 2014 công trình hoàn thành. Để thực hiện tốt công tác tiếp công dân, Văn phòng đã thực hiện sắp xếp, tổ chức bộ máy Ban Tiếp công dân của tỉnh trên cơ sở tiếp nhận một số cán bộ từ Thanh tra tỉnh. Từ tháng 01/2015, Trụ sở tiếp công dân tỉnh vào hoạt động tại số 5, đường Trường Chinh, thành phố Đông Hà.
Văn phòng UBND tỉnh đã chú trọng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai ứng dụng phần mềm quản lý văn bản và hồ sơ công việc trên mạng máy tính nội bộ và áp dụng việc gửi, nhận văn bản giữa các cơ quan, đơn vị trong tỉnh qua mạng tin học; đồng thời xử lý văn bản qua mạng để đảm bảo thông tin phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh kịp thời.
Công tác văn thư - lưu trữ tiếp tục thực hiện nề nếp, chặt chẽ, đúng quy trình tiếp nhận, chuyển và xử lý kịp thời văn bản; thực hiện việc in ấn, phát hành, tiếp nhận một khối lượng lớn tài liệu đảm bảo chính xác, an toàn, bí mật. Ứng dụng và triển khai tốt công nghệ thông tin trong công tác quản lý công văn đi, đến...
Công tác hậu cần, bảo đảm vật chất phục vụ các hoạt động của UBND tỉnh tiếp tục được duy trì tốt, bảo đảm hiệu quả, chu đáo, kịp thời. Hàng năm, Văn phòng đã phục vụ chu đáo hàng trăm hội nghị, buổi làm việc của Chủ tịch và các Phó chủ tịch UBND tỉnh; tổ chức tiếp đón hàng trăm lượt khách quốc tế và trong nước đến thăm và làm việc tại tỉnh đảm bảo an toàn và để lại nhiều ấn tượng tốt. Các bộ phận, đơn vị trực thuộc Văn phòng tiếp tục được tăng cường nhân lực, tổ chức bộ máy, đào tạo nhằm đáp ứng nhiệm vụ được giao. Trung tâm Dịch vụ hội nghị tỉnh tiếp tục duy trì và phát triển quy mô, chất lượng dịch vụ, vừa nâng cao chất lượng kinh doanh, vừa chủ động phục vụ tốt các đoàn khách của tỉnh chu đáo. Trung tâm chú trọng đổi mới hoạt động nhằm tăng thu, giảm chi cho ngân sách; tổ chức các hoạt động kinh doanh, dịch vụ ăn, nghỉ và các dịch vụ có thu khác nhưng không ảnh hưởng đến nhiệm vụ phục vụ các Hội nghị của tỉnh và khách đến thăm và làm việc với tỉnh. Từ năm 2014 Trung tâm đã thực hiện việc chuyển từ đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động sang đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động theo quy định của Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ.
Có thể nói, trong giai đoạn 2011 - 2015, Văn phòng UBND tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết, tập trung trí tuệ, công sức, không ngừng đổi mới, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đặc biệt, đã cùng các Sở, ban, ngành tham mưu Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh chỉ đạo xây dựng kế hoạch, hướng dẫn triển khai và kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, về đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… đảm bảo các chủ trương của Đảng được thực hiện nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả.
Trong 26 năm kể từ ngày tỉnh Quảng Trị được lập lại, từ những ngày đầu với bao bộn bề khó khăn của một tỉnh nghèo vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh, xuất phát điểm rất thấp, cơ sở vật chất hầu như không có gì, nhưng với tinh thần đoàn kết nhất trí, ý chí vươn lên không ngừng, cán bộ Văn phòng UBND tỉnh Quảng Trị đã một lòng đoàn kết, nổ lực phấn đấu, cùng với các ngành, các cấp tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, giành được những thành tựu to lớn trong quá trình tái thiết lại quê hương.
Từ bộ máy cán bộ ngày thành lập tỉnh chỉ có 25 cán bộ gồm cả lãnh đạo, cán bộ, công chức; đến nay Văn phòng UBND tỉnh đã có sự phát triển và lớn mạnh vượt bậc. Cán bộ, công chức Văn phòng đã có nhiều cố gắng trong công tác tham mưu, đề xuất giúp UBND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh quyết định, chỉ đạo điều hành công việc có hiệu quả; tổ chức triển khai kịp thời, các Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Trung ương, Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh vào thực tế ở địa phương và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Văn phòng đã thể hiện vai trò đầu mối, điều phối các vấn đề liên ngành, chủ động làm việc với các Sở, ban, ngành chuyên môn và UBND các huyện, thị xã, thành phố để tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo UBND tỉnh. Công tác hậu cần, phục vụ từ văn thư, kế toán, hành chính, tạp vụ, Trung tâm Dịch vụ Hội nghị, đội xe, Trung tâm tin học... đã luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, chuyên môn, tin học và kiến thức quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức, viên chức được quan tâm. Cán bộ, công chức của Văn phòng UBND tỉnh đều có trình độ chuyên môn, trình độ chính trị cao, trong đó có 1 đồng chí có học vị tiến sĩ, 9 đồng chí có trình độ thạc sỹ, 18 đồng chí có trình độ cao cấp, cử nhân chính trị. Văn phòng đã thực sự đã trở thành trường học lớn để cán bộ công chức rèn luyện phấn đấu và trưởng thành.
Văn phòng thường xuyên phối hợp với các tổ chức đoàn thể phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước, với nội dung phong phú và mục tiêu cụ thể, thiết thực được đông đảo cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nhiệt liệt hưởng ứng… Mặc dù đời sống còn gặp nhiều khó khăn, song cán bộ, công chức, viên chức Văn phòng đều tích cực tham gia các hoạt động xã hội như: nhận đỡ đầu trẻ mồ côi; ủng hộ nhân dân các địa phương bị thiên tai, lũ bão; ủng hộ quỹ vì người nghèo, ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam…Bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chuyên môn; Đảng uỷ - lãnh đạo Văn phòng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi đẩy mạnh các phong trào của các đoàn thể. Công đoàn đã chủ động phối hợp với các đoàn thể tổ chức các phong trào thể dục thể thao rèn luyện thân thể; tổ chức các giải thể thao truyền thống Văn phòng hàng năm; tham gia đầy đủ các hội thi, hội diễn và các hoạt động khác do Công đoàn cấp trên phát động. Công đoàn đã chủ động đề xuất với Đảng uỷ, Thủ trưởng cơ quan tích cực chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công chức viên chức: Tổ chức thăm hỏi động viên đoàn viên khi gặp khó khăn hoạn nạn, thăm hỏi tặng quà cho các đối tượng chính sách nhân ngày thương binh liệt sỹ. Từ năm 1989 đến nay, Đảng bộ Văn phòng liên tục được công nhận là Đảng bộ trong sạch vững mạnh; Công đoàn, Chi đoàn thanh niên liên tục được công nhận vững mạnh.
Vẫn còn nhiều nhiệm vụ nặng nề đang chờ phía trước đối với Văn phòng UBND tỉnh, nhưng tập thể cán bộ, công chức Văn phòng UBND tỉnh sẽ cùng nhau đoàn kết, thống nhất, nổ lực hơn nữa để thực hiện tốt công tác tham mưu, tổng hợp, đưa ra những đề xuất giúp Lãnh đạo tỉnh trong công tác chỉ đạo, điều hành, đẩy mạnh việc phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhà.

Các tin khác